Afghanistan, Iran, Israel, Thổ Nhĩ Kỳ, và nhiều hơn thế nữa… Trung Đông luôn nóng trên bản tin thời sự. Nếu bạn hiểu chủ đề về ‘xu hướng thế giới’ và ‘lời tiên tri trong Kinh thánh’, điều này không có gì đáng ngạc nhiên. Hầu hết các câu chuyện trong Kinh thánh, quá khứ và mang tính tiên tri, đều ở Trung Đông. Nó là cái nôi của nền văn minh, bắt đầu từ Mesopotamia, nơi lịch sử bắt đầu và theo Kinh thánh, nó sẽ đạt đến cực điểm.
Sự thay đổi chính quyền ở Washington và Jerusalem chắc chắn đã làm đảo lộn cán cân quyền lực trong khu vực. Mọi thứ có khả năng dễ xảy ra chiến tranh tàn phá trong khu vực: Hiệp định Abraham vào tháng 10 năm 2020 giữa Israel và bốn quốc gia Ả Rập: Bahrain, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Sudan và Maroc, hoàn toàn mang tính lịch sử. Đã hai mươi sáu năm kể từ khi hiệp ước hòa bình cuối cùng được ký với Israel, cụ thể là Jordan, vào năm 1994. Trước đó, đó là hiệp ước hòa bình Ai Cập-Israel năm 1979. Chưa bao giờ nhiều quốc gia Ả Rập theo đạo Hồi lại xếp hàng dài để thực hiện hòa bình với nhà nước Do Thái, tất cả cùng một lúc.
Giờ đây, Washington và Jerusalem có các chính phủ cánh tả mới, ôn hòa, đó là hoạt động ‘như thường lệ’ với các đề xuất phân chia đất đai (bao gồm cả Jerusalem), khởi động thỏa thuận hạt nhân Iran và gia hạn chuyển tài chính cho Chính quyền Palestine mà không có ràng buộc nào. Sự nghiêng về phía Iran gần đây của Jordan, được coi là mối đe dọa của người Shia đối với người Ả Rập Sunni, phản ánh sự kinh hoàng trước những gì đang xảy ra ở Hoa Kỳ và Israel… chủ nghĩa thực dụng ra lệnh làm hòa với kẻ thù trong khi bạn có thể. Và tất cả những điều này là trước khi Liên quân Mỹ và Đồng minh rút khỏi Afghanistan gây tranh cãi, thậm chí hỗn loạn vào tháng 8 năm 2021. Khi chúng ta xem xét các dấu hiệu của thời đại và lời tiên tri trong Kinh thánh, đây là một số xu hướng cần theo dõi:
1. Sự rung chuyển vũ trụ quá lớn (Hê-bơ-rơ 12: 25-29);
2. Khả năng hủy diệt trên lý thuyết trên toàn thế giới (Ma-thi-ơ 24:22);
3. Chiến tranh toàn cầu hoặc thế giới, chỉ bắt đầu vào thế kỷ 20. Arnold Fruchtenbaum nói rằng các cụm từ, ‘Nước nọ dấy lên nghịch lại nước kia, và vương quốc chống lại vương quốc’ (Ma-thi-ơ 24: 7) là thành ngữ chỉ “các cuộc chiến tranh thế giới”.
4. Nạn đói, dịch bệnh và động đất (Ma-thi-ơ 24: 7): Chưa kể đến Covid-19, thì đại dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918-1919 vẫn là đại dịch lớn nhất.
5. Sự lừa dối ngày càng gia tăng (Ma-thi-ơ 24: 4). Mặc dù sự lầm lạc và tin điều dối giả đã có từ trước nhưng tinh thần thần đó đang cám dỗ mạnh mẽ chưa từng có trên thế giới ngày nay (2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:11);
6. Gia tăng kiến thức và nhu cầu đi lại rất lớn (Đa-ni-ên 12: 4);
7. Sự chú ý và ám ảnh toàn cầu đối với Giu-đa và Giê-ru-sa-lem (Xa-cha-ri 12, 14).
Khi xem xét những ‘dấu hiệu’ này, hãy ghi nhớ những lời của Chúa Giê-xu trong Ma-thi-ơ 24: 6: “Hãy giữ mình, đừng bối rối, vì những sự ấy phải đến; song chưa là cuối cùng đâu.”.
Nhiều người cho rằng, một số dấu hiệu trong số này là phiền phức và đáng sợ, vậy cơ sở của việc không sợ hãi của chúng ta là gì? Làm thế nào chúng ta có thể không gặp rắc rối và sợ hãi? Trả lời: Hãy đầu tư vào đời sống thuộc linh của bạn, thừa nhận trái bình an thuộc linh (Ga-la-ti 5:22), và bước đi với Hoàng tử Hòa bình.
Bởi Kameel Majdali Giám đốc | Teach All Nations Inc.
Biên dịch Cơ Đốc Nhân Vì Israel Quốc Tế
Chuyên Đề
Học Cách Sống Trong Thiên Sử Thi Của Đức Chúa Trời
Ngay từ thuở ban đầu, bắt đầu với A-đam và Ê-va, nhân loại đã khao khát trở thành dân định cư. Trong Sáng Thế Ký 1:28, mạng lệnh đầu tiên của Đức Chúa Trời với loài người, Ngài phán: “Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất.” Trong Sáng Thế Ký 9:1, khi Nô-ê và gia đình ông bước khỏi tàu, Chúa bảo họ “hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất.” Rõ ràng mong muốn của Đấng Tạo Hóa chúng ta là làm đầy dẫy trên đất những người thờ phượng Ngài.
Khi bạn nhìn tiếp vào câu chuyện của Chúa, bạn nhận ra con cháu của Nô-ê, đều sinh sống cùng một thành, đồng một thứ tiếng,( Sáng Thế Ký 11:4 )có nói: “Nào! Chúng ta hãy xây một cái thành và dựng lên một cái tháp, chót cao đến tận trời; ta hãy làm cho rạng danh, e khi phải tản lạc khắp trên mặt đất.” Con cháu của Nô-ê cũng biết rõ kế hoạch và mục đích của Đức Chúa Trời lúc bấy giờ là trở thành những người lữ khách chứ không phải dân định cư, nhưng họ lại chọn cách trực tiếp bất tuân mong muốn của Đức Chúa Trời. Trong (Sáng Thế Ký 11:8), chúng ta thấy rằng Đức Chúa Trời luôn có được những gì Ngài muốn, dù loài người có vâng lời hay không. Ngay lập tức, Chúa làm tản lạc những con người này trên khắp mặt đất, làm rối loạn tiếng nói của họ, và họ ngừng xây thành. Chúng ta thấy rằng chính Chúa chứ không phải loài người đã tạo dựng nên các quốc gia trên thế giới, các nền văn hóa đa dạng, các ngôn ngữ, và các nhóm người.
Chúng ta càng tìm hiểu về Chúa và Câu chuyện của Ngài, chúng ta học được Câu chuyện của Đức Chúa Trời là một thiên sử thi. Thiên sử thi là một câu chuyện đủ lớn để sống mãi. Tạm trú và trở thành một lữ khách là tất cả những gì ta cần học để sống trong bối cảnh Câu chuyện của Chúa mà không cố tạo nên câu chuyện nhỏ cho chính mình. Bằng chứng cho thấy nhân loại nỗ lực và tìm kiếm để sống độc lập với Đấng Tạo Hóa được thấy rõ qua các câu chuyện trong Kinh Thánh và ngay cả nước Mỹ ngày nay. Tìm kiếm và đeo đuổi Giấc mơ Mỹ là thực trạng cuộc sống tại Mỹ, và họ đưa hình mẫu này cho cả thế giới. Trong câu chuyện Tháp Ba-bên, con người muốn có uy thế, quyền lực, và được định cư tại một chỗ. Đối lập hoàn toàn với kế hoạch của Đấng Tạo Hóa. Giấc mơ Mỹ đưa ra hình mẫu của một người có một cuộc sống sung túc cho bản thân để họ không phải dựa dẫm vào bất kì ai hoặc bất kì thứ gì trong suốt cuộc đời họ. Khả năng tự sở hữu đất đai và nhà cửa là giấc mơ của tất cả mọi người. Chính tâm lý Giấc mơ Mỹ khiến chúng ta không thể thấy được công việc của Đức Chúa trời xung quanh mình.
Lữ Khách Là Kiều Dân Và Là Người Ngoại Kiều Với Thế Giới Này.
Trong Hê-bơ-rơ 11, chương về đức tin đã chia sẻ câu chuyện của nhiều lữ khách có đức tin mạnh mẽ theo Chúa trong lúc sống và cả lúc chết. Hê-bơ-rơ 11:13: “Tất cả những người ấy đều chết trong đức tin, chưa nhận lãnh những điều đã hứa cho mình; chỉ trông thấy và chào mừng những điều ấy từ đằng xa, xưng mình là kiều dân và lữ khách trên đất.” Tất cả những người đầy dẫy đức tin đã làm gương về một cách sống hiểu mình chỉ là những kẻ tạm trú trên đất. Họ hiểu rằng họ không được kêu gọi để lập nhà trên đất. Những anh hùng đức tin này biết rằng họ bước qua đời này như một người theo Đấng Christ, là Đấng đang sắm sẵn cho họ một chỗ ở cố định trong nước Thiên Đàng. Những người này đã có những quyết định phải trả bằng cả mạng sống họ, nhưng dùng sự trả giá đó để đầu tư vào Vương quốc đời đời của Đấng Tạo Hóa.
Đức Chúa Giê-xu cầu nguyện để các môn đồ của Ngài trở thành những người ngoại kiều và lữ khách trên đất.
“Con không cầu xin Cha đem họ ra khỏi thế gian nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi điều ác. Họ không thuộc về thế gian cũng như Con không thuộc về thế gian.” – Giăng 17:15-16
Đức Chúa Giê-xu không cầu xin cho môn đồ của Ngài được đem ra khỏi hiểm nguy, nhưng là gìn giữ họ khỏi sự hiện diện của nguy hiểm. Chúa không cầu xin để họ sống cùng nhau tại một nơi yên bình, nhưng là sống tại những nơi nguy hiểm để xây dựng mối quan hệ với những linh hồn chưa được chạm tới.
Một người lữ khách là một cư dân chọn cách sống của một người ngoại kiều, bời vì anh ta biết rằng nhà thật sự của mình là ở trên thiên đàng với Đấng tạo dựng nên mình. Đời sống họ phản ánh rằng họ là những người trú ngụ, là kiều dân tại nơi đất khách quê người, là người chỉ ở lại một lúc, luôn luôn tiến lên phía trước, luôn luôn tăng trưởng. Người Lữ Khách luôn luôn thay đổi, tiên phong, đề xướng, và là người mở đường để trở thành một phần của cuộc cách mạng của Đấng Christ. Người Lữ Khách là người tạm trú, nghĩa là ở, sinh sống, trú ngụ và sống như một người ngoại kiều. Tạm trú nghĩa là sống một cuộc sống như người bộ hành, không nhìn nhận cuộc đời như một đích đến nhưng là một quá trình, một cuộc hành trình tiếp diễn.
Trông câu chuyện về Áp-ram, năng quyền của câu chuyện không phải là về những điều vĩ đại mà Áp-ram đã thực hiện. Áp-ram, là con cháu của một trong bảy mươi quốc gia mà Chúa tạo ra tại Tháp Ba-bên. Khi bạn so sánh những gì con người đã ước muốn tại Tháp Ba-bên, với những gì Chúa hứa với Áp ram, thì thấy hai điều này là một. Trong Sáng Thế Ký 12:1-3:
“Vả, Đức Giê-hô-va có phán cùng Áp-ram rằng: Ngươi hãy ra khỏi quê hương, vòng bà con và nhà cha ngươi, mà đi đến xứ ta sẽ chỉ cho. Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân lớn; ta sẽ ban phước cho ngươi, cùng làm nổi danh ngươi, và ngươi sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước ngươi; và các chi tộc nơi thế gian sẽ nhờ ngươi mà được phước.”
Năng quyền đằng sau câu chuyện của Áp-ra-ham là: nhờ đức tin của Áp-ra-ham khi vâng lời, Chúa giữ Lời hứa của Ngài là làm nổi danh Áp-ra-ham, gia đình của Áp-ra-ham trở thành một dân lớn, là phước hạnh cho mọi dân tộc trên thế giới qua ông. Câu chuyện của Áp-ra-ham không phải nói về việc ông đến được vùng đất hứa, mà là về Áp-ra-ham tin cậy nơi Đấng Tạo Hóa của ông. Chính Chúa đã đổi tên ông thành Áp-ra-ham, nghĩa là cha của nhiều dân tộc. Câu chuyện Áp-ra-ham bỏ lại mọi thứ mà ông biết để theo một Chúa mà ông không biết, đi đến một nơi mà Chúa không nói cho ông biết. Bạn có cảm thấy sự tín nhiệm đến cùng mà Áp-ra-ham có không? Áp-ra-ham là một người lữ hành, một người ngoại, một người đàn ông từ trong các quốc gia, một người giàu có, một nhân vật xuất chúng trong cộng đồng của ông. Đức Chúa Trời kêu gọi Áp-ra-ham bỏ lại tất cả sự ổn định đó để theo Ngài.
Chúa đang kêu gọi chúng ta học theo ví dụ lớn về hành hương bản thân, ngày nay trong thời hiện đại này. Giấc Mơ Mỹ nói với chúng ta rằng hãy định cư, sống gần gũi với gia đình, kiếm thật nhiều tiền, chăm sóc gia đình mình, và có một ngôi nhà tốt, cùng với nhiều sự bảo đảm và ổn định nhất có thể.
Ngay từ thời điểm ban đầu, nhân loại đã phải đấu tranh trong trận chiến này để được ổn định một chỗ và không bị tan lạc khắp mặt đất.
Bạn định sẽ tạm trú hay định cư? Bạn có dám bước ra cánh đồng truyền giáo không?
Dịch: H.U
Nguồn: thetravelingteam.org
Ảnh: chopra.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Trả Lời Các Câu Hỏi trong Sách Sáng Thế Ký – Phần 5: Truyền Thuyết về Trận Đại Hồng Thủy
Bạn có thể hình dung được về một một trận lụt có quy mô toàn cầu không? Con người sẽ nói về điều đó trong hàng thế kỷ. Trên thực tế, sự thật mà chúng ta được Kinh Thánh cho biết là Sem, con trai của Nô-ê, đã sống đủ lâu để có thể kể lại câu chuyện đó trực tiếp với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Khi đọc Kinh Thánh có thể bạn sẽ không để ý điều này nhưng khi nắm bắt được nó rồi bạn sẽ rất ngạc nhiên đấy. Thật là một chuyện khó tin đúng không.
Bạn có biết rằng trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, người ta vẫn đang nói về trận lụt này? Cho đến nay, đã có 270 truyền thuyết về cơn đại hồng thủy được xác định ở các quốc gia và nền văn hoá khác nhau trên thế giới.
Người Hawai có một truyền thuyết, ngay sau cái chết của Kuniuhonna, người đàn ông đầu tiên, thế giới đã trở thành một nơi khủng khiếp đầy gian ác. Tuy nhiên có một người tốt còn sót lại, tên của ông là Nu-u. Ông đã làm một chiếc thuyền lớn với một căn nhà trên đó và chở đầy thú vật. Nước tràn lên khắp đất và giết tất cả dân chúng. Chỉ có Nu-u và gia đình mình là được cứu. Một gia đình được cứu sống và một chiếc thuyền chở đầy những những con thú. Nghe có vẻ giống với câu chuyện Kinh Thánh đúng không?
Người Trung Quốc có một truyền thuyết, họ nói rằng Fuhi là ông tổ của nền văn minh Trung Hoa. Fuhi có lẽ là Nô-ê? Câu chuyện kể rằng Fuhi, vợ, ba con trai và ba con gái của mình đã thoát được một trận lũ lớn. Ông và gia đình ông là những người duy nhất còn sống sót trên đất. Sau trận lụt, họ đã khôi phục lại thế giới. Thật hấp dẫn đúng không.
Bây giờ người Mexico, những người thổ dân Toltec, có một câu chuyện rất thú vị. Họ nói thế giới thứ nhất kéo dài 1716 năm và bị phá hủy bởi một trận lụt bao trùm những ngọn núi cao nhất. “Chỉ có một gia đình tên là Coxcox sống sót”. 1716 năm, Kinh Thánh thì thêm vào 1656 năm nữa từ sự sáng tạo cho đến trận lụt, nhưng điều đó gần đúng với thuyết 4000 năm tuổi từ thuở sáng tạo đến Chúa Giê-xu.
Câu hỏi đặt ra là, tại sao có gần 300 huyền thoại về trận đại hồng thủy? Tôi nghĩ bởi vì thật sự đã có một trận lụt lớn mang quy mô toàn cầu xảy ra trước đây. Con cháu của Nô-ê đã gia tăng đầy dẫy và rải ra khắp đất mang theo câu chuyện được truyền lại từ thời Nô-ê và phát triển thành nhiều dị bản nhưng vẫn hướng về trận lụt trên toàn thế giới này.
(Còn nữa)
Eunice dịch
Nguồn: Truth in Genesis
Ảnh: relativelyinteresting.com
Bài vở cộng tác và góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Chúng ta thường nói về phước, chúng ta cầu nguyện để được phước, chúng ta đọc trong Kinh Thánh về sự ban phước, nhưng bạn đã bao giờ dừng lại để hỏi – phước lành thực sự có nghĩa là gì chưa? Mọi việc diễn ra tốt đẹp, đúng như ý của mình? Sự thịnh vượng – sức khỏe, sự giàu có và nhiều thứ có vẻ bình thường khác nữa? Sự ưu ái của Chúa? Chính xác thì phước lành là gì? Chúng ta có thể dễ dàng đồng ý rằng đó là một điều rất tích cực, nhưng khi chúng ta cố gán ý niệm về sự ban phước xuống một định nghĩa, thì phước lành có vẻ đột nhiên trượt ra khỏi tầm hiểu biết của chúng ta. Chúng ta luôn nói về phước lành với tư cách là những người tin Chúa, nhưng có thể chúng ta không thực sự biết chính xác về những gì mà chúng ta đang nói ?
Lần đầu tiên chúng ta bắt gặp phước lành trong Kinh Thánh là ở chương đầu tiên, và nó giúp chúng ta hiểu được điều bí ẩn tuyệt vời này có nghĩa là gì;
Đức Chúa Trời ban phước cho các loài đó mà phán rằng: “Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy dưới biển; còn các loài chim hãy sanh sản trên đất cho nhiều.” (Sáng-thế 1:22)
Vì vậy, điều này phù hợp với ý tưởng về sự thịnh vượng – kết quả và sinh sôi nảy nở. Sau đó, chúng ta thấy trong câu 28:
Đức Chúa Trời ban phước cho loài người và phán rằng: Hãy sanh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời cùng các vật sống hành động trên mặt đất.
Đức Chúa Trời ban phước cho các tạo vật và sau đó Ngài ban phước cho A-đam và Ê-va. Nhưng phước lành này có hơi khác một chút… vâng, phước lành này có sự sinh sôi và nảy nở, nhưng cũng có quyền hạn và thẩm quyền để quản trị các tạo vật và làm cho đất phục tùng. Ngay khi kết thúc quá trình sáng tạo, Chúa tạo ra ngày Sa-bát. Trong Kinh Thánh Do Thái, điều này cũng nằm trong chương một, vì là một phần của sự sáng tạo. Và Chúa ban phước cho ngày Sa-bát:
Rồi, Ngài ban phước cho ngày thứ bảy, đặt là ngày thánh; vì trong ngày đó, Ngài nghỉ các công việc đã dựng nên và đã làm xong rồi. (Sáng-thế 2:3)
Vậy điều này có nghĩa là gì? Việc Đức Chúa Trời “ban phước” cho ngày Sa-bát phá vỡ mọi khuôn mẫu của phước lành mà chúng ta biết. Ngài ban phước cho ngày đó và làm cho nó nên thánh, như Ngài là thánh. Đây là ngày nghỉ đặc biệt của Ngài, phản ánh việc Ngài nghỉ ngơi sau công cuộc sáng tạo.
Một định nghĩa về phước lành
Philip Litle, một giáo sư Kinh Thánh tuyệt vời, định nghĩa phước lành như thế này:
Về cơ bản, phước lành là Đức Chúa Trời ban quyền năng cho ai đó (hoặc điều gì đó) để làm điều mà họ được thiết kế hoặc dự định làm. Các sinh vật được tạo ra để sinh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất – vì vậy Đức Chúa Trời đã ban phước cho chúng – ban quyền năng của Ngài trên chúng – để làm được điều đó. Con người cũng phải sinh sản, thêm nhiều, và còn phải chăm lo cho các tạo vật khác. Và Chúa cũng đã ban cho họ quyền năng để làm điều đó. Khi nói đến ngày Sa-bát, Chúa đã làm cho ngày này thấm nhuần với quyền năng của Ngài để trở thành tất cả những gì mà nó được thiết kế để trở thành – một ngày nghỉ thánh, để con người được kết nối với Đức Chúa Trời.
Phước lành là Đức Chúa Trời ban cho quyền năng để làm những gì Ngài muốn chúng ta làm.
Khi chúng ta chúc tụng Chúa thì sao?
Khi chúng ta chúc tụng Chúa (và mọi lời chúc phước của người Do Thái đều chứa đựng những câu chúc tụng Chúa – baruch ata Adonai Eloheinu, Melech HaOlam – Chúc tán Chúa là Đức Chúa Trời, Vua của toàn cõi vũ trụ), chúng ta chỉ đơn giản công nhận Ngài là nguồn phước chính đáng và duy nhất. Nhờ quyền năng của Ngài, chúng ta có được tất cả những gì chúng ta đang có, và trở nên con người như bản thân chúng ta hiện tại.
Còn chúc phước cho người khác thì sao?
Khi chúng ta nhân danh Chúa chúc phước cho người khác, chúng ta đang cầu nguyện rằng Đức Chúa Trời sẽ ban phước lành cho họ. Khi chúc phước, chúng ta đang cầu xin Đức Chúa Trời ban phước cho một người nào đó theo như ý muốn và ý định tốt lành của Chúa dành cho họ. Đó cũng là một sự thừa nhận rằng chúng ta không thể làm được điều này nếu không có quyền năng của Ngài. Đó không chỉ là vấn đề chúng ta mong muốn, mà chúng ta còn được thiết kế – để làm những điều tốt đẹp mà Đức Chúa Trời đã dự định cho chúng ta làm. Ngài cho chúng ta biết phải làm gì theo lời của ngài, và phước lành của ngài là quyền năng được ban cho để làm điều đó. Ngài ra lệnh cho chúng ta, thì chỉ một mình Ngài là Đấng ban cho chúng ta khả năng để tuân theo những mạng lệnh đó.
Hãy nhớ phước lành đến từ đâu
Chúng ta thấy rất rõ khuôn mẫu của mạng lệnh và phước lành này trong Phục-truyền Luật-lệ Ký:
Hãy cẩn thận làm theo hết thảy điều răn mà ta truyền cho các ngươi ngày nay, để các ngươi được sống, được gia thêm, và được vào nhận lấy xứ mà Đức Giê-hô-va đã thề cùng tổ phụ các ngươi, để ban cho các ngươi. Hãy nhớ trọn con đường nơi đồng vắng mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã dẫn ngươi đi trong bốn mươi năm nầy… vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi sẽ khiến ngươi vào xứ tốt tươi… ngươi sẽ ăn no nê, và ngợi khen Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, vì cớ xứ tốt tươi mà Ngài đã ban cho. (Phục-truyền Luật-lệ Ký 8:1-2; 7, 10)
Vậy, Đức Chúa Trời ban cho mạng lệnh và phước lành, cũng như cảnh báo Y-sơ-ra-ên đừng quên phước lành đến từ đâu:
Ngươi khá cẩn thận, e quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, không giữ gìn những điều răn, mạng lịnh, và luật lệ của Ngài, mà ngày nay ta truyền cho ngươi chăng; lại e sau khi đã ăn no nê, cất nhà tốt đặng ở, thấy bò chiên của mình thêm nhiều lên, bạc, vàng, và mọi tài sản mình dư dật rồi, thì bấy giờ lòng ngươi tự cao, quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi… khá coi chừng, chớ nói trong lòng rằng: Ấy nhờ quyền năng ta và sức lực của tay ta mà đoạt được những sản nghiệp nầy. Hãy nhớ lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, vì ấy là Ngài ban cho ngươi sức lực đoạt được những sản nghiệp, để làm trọn sự giao ước Ngài đã thề cùng tổ phụ ngươi, y như Ngài đã làm ngày nay. (Phục-truyền Luật-lệ Ký 8:11-14; 17-18)
Chính Đức Chúa Trời là Đấng đã ban cho chúng ta khả năng và sức lực để kết quả và thành công và chúng ta cần đảm bảo rằng chúng ta luôn ghi nhớ điều này trong tâm trí mình. Chính phước lành của Chúa đã cho phép chúng ta có được thành công như hiện tại, không phải là nhờ chúng ta làm việc chăm chỉ hay may mắn gặp được cơ hội tốt.
Cũng trong phân đoạn này, chúng ta thấy khái niệm về sự sinh sôi nảy nở xuất hiện nhiều lần. Đây là một phần quan trọng của phước lành. Điều gì đến từ Đức Chúa Trời sẽ luôn phát triển và gia tăng. Chúng ta thấy phước lành này ở khía cạnh con cháu đầy đàn, gia súc sinh sôi và tài sản ngày càng thêm nhiều lên. Phước lành thể hiện trong mối quan hệ gia đình và cả về khía cạnh kinh tế nữa. Ngoài ra còn có sự nhấn mạnh về việc trở thành nguồn phước cho toàn xã hội, và đây là một điểm quan trọng mà chúng ta cũng cần phải ghi nhớ. Chúa ban phước cho chúng ta không phải để chúng ta giữ cho riêng mình – trước hết chúng ta nên công nhận và chúc tán Đức Chúa Trời, Ngài là nguồn của mọi phước hạnh, và thứ hai hãy nhớ tuân theo mạng lệnh của Ngài, vì quyền năng Ngài cho phép chúng ta truyền lại phước lành Ngài cho những người khác.
Đức Chúa Trời đã hứa với Áp-ra-ham rằng, mọi dân tộc trên thế gian sẽ nhờ ông mà được phước. Ông đã được ban phước để trở nên một nguồn phước, như dân Y-sơ-ra-ên đã làm những gì Đức Chúa Trời hằng định cho họ làm, và mang lại ánh sáng cho các dân qua sự ra đời của Đấng Mê-si. Đổi lại, Ngài cũng có ý định cả thế gian sẽ trở thành một nguồn phước cho người Do Thái vì qua dân tộc này mà họ nhận được lòng thương xót của Đức Chúa Trời dành cho họ (vì bởi tội lỗi họ mà sự cứu đã đến cho dân ngoại). Và Ngài định Y-sơ-ra-ên sẽ làm điều gì cho Ngài? Một khi họ hoàn toàn tiếp nhận ơn cứu rỗi, thì phước hạnh đến với thế gian sẽ dồi dào hơn biết bao! (Rô-ma 11:12)
Chúng tôi rất vui vì các bạn đang cầu nguyện và chúc phước cho Israel!
Dịch: Eunice Tu
Nguồn: oneforisrael.org
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Ba Mẹ Ơi, Con Xin Hỏi – Phần 87: Tại Sao Chúa Không Sửa Chữa Tất Cả Vấn Đề Của Thế Giới?
Thế giới chúng ta đang sống là một nơi xinh đẹp, to lớn, và có đầy những điều tuyệt vời. Trong đất nước này, chúng ta có thể tận hưởng đại dương rộng lớn, rừng xanh, suối nước mát, và các loài vật xinh đẹp. Nhưng đáng buồn thay, con người đang hủy diệt thế giới này. Nhiều nơi trên thế giới bị ô nhiễm. Rất nhiều chỗ tại Ấn Độ và Trung Quốc, không khí không đủ tốt để thở. Nhiều dòng sông trên trái đất bị bẩn và không thể uống được. Các rặng san hô của trái đất đang chết dần. Trong quá khứ từng có rất nhiều hổ, hà mã và tinh tinh. Giờ đây số lượng chỉ còn lại rất ít. Nếu thế giới này hoàn toàn bị phá hủy thì thật đáng buồn. Nhưng đó là những gì đang xảy ra. Kinh Thánh cảnh báo rằng, “Một phần ba biển biến ra huyết, một phần ba sanh vật trong biển chết hết. … Một phần ba nước biến ra như mùi ngải cứu, và làm chết mất nhiều người ta, vì đã biến thành ra đắng” (Khải huyền 8:8, 9, 11). Sau đó mọi thứ còn tệ hơn nữa. Đến một ngày, mọi sinh vật sống trong đại dương sẽ chết hết (Khải huyền 16:3).
Điều này nghe có vẻ rất là ảm đạm phải không? Thật đáng buồn nếu đây là sự kết thúc, và không gì có thể thay đổi được. Nhưng có một tin tức tốt lành: sau khi Chúa Giê-su trở lại, Đức Chúa Trời sẽ thanh tẩy trái đất và đại dương. Ngài sẽ khiến cho chúng trở thành nơi đáng sống. Ngài sẽ khiến cho nước được tinh khiết trở lại. Con sẽ có thể bơi trong đại dương. Đại dương sẽ có đầy cá voi, cá heo và các loài cá khác. Con sẽ có thể uống nước từ các dòng suối.
Tất cả các vùng đất trên thế giới sẽ trở thành thiên đàng. Những con sư tử và báo xinh đẹp sẽ lại đi thong dong một lần nữa. Và chúng sẽ còn tốt hơn bây giờ. Chúng sẽ không săn bắt hay giết các con vật nữa. Chúng sẽ trở nên hiền lành và ăn cỏ cây như gia súc. Mọi nơi trên trái đất sẽ giống như Vườn Ê-đen.
“Bấy giờ muông sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với dê con; bò con, sư tử con với bò nuôi mập cùng chung một chỗ, một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi. Bò cái sẽ ăn với gấu; các con nhỏ chúng nó nằm chung, sư tử ăn cỏ khô như bò. Trẻ con đang bú sẽ chơi kề ổ rắn hổ mang, trẻ con thôi bú sẽ thò tay vào hang rắn lục. Nó chẳng làm hại, chẳng giết ai trong cả núi thánh của ta; vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Đức Giê-hô-va, như các dòng nước che lấp biển” (Ê-sai11:6-9).
*****
Tại sao có những người đang hủy phá thế giới tươi đẹp chúng ta đang sống?
Trái đất sẽ trở nên như thế nào khi Chúa biến nó trở thành thiên đàng?
Nguồn: Viện Đào Tạo Môn Đồ Việt Nam
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Ukraine
Trong số những người giúp đỡ người Do Thái trở về có các tổ chức Cơ đốc giáo như “Cơ đốc nhân vì Y-sơ-ra-ên”, là một phong trào quốc tế và phi chính trị đang phát triển của các Cơ đốc nhân từ tất cả các hội thánh và hệ phái. Họ là những người tin rằng việc người Do Thái trở lại Y-sơ-ra-ên là một sự ứng nghiệm Lời tiên tri trong Kinh thánh. Chúng tôi tin rằng tình yêu và mối quan tâm của chúng tôi dành cho Y-sơ-ra-ên không nên chỉ dừng lại ở lời nói: chúng tôi muốn làm một điều gì đó cho Y-sơ-ra-ên. Vì vậy, một trong những dự án của chúng tôi là giúp người Do Thái trở về nhà. Đặc biệt, chúng tôi tập trung vào việc giúp đỡ một số người trong số ước tính một triệu người Do Thái vẫn đang sống ở Liên Xô cũ và ở Ukraine, một nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ. Khu vực đó có lịch sử bài Do Thái khủng khiếp, với những vụ giết người Do Thái hàng loạt, thường là với sự đồng lõa của Nhà thờ. Cơ Đốc nhân vì Y-sơ-ra-ên có một đội làm việc do Koen Carlier lãnh đạo để giúp đỡ người Do Thái theo bất cứ cách nào họ có thể – đặc biệt là trong nỗ lực của họ để trở về Miền đất hứa của Y-sơ-ra-ên.
Lịch sử của Ukraine là một ví dụ về những gì đã xảy ra với người Do Thái ở các vùng đất Cơ đốc giáo, ở phương Đông và phương Tây. Dưới đây là trích dẫn từ http://www.jewishvirtuallibrary.org/jsource/vjw/ ukraine.html
“Ukraine là một nước cộng hòa ở Đông Âu, giáp với Nga ở phía đông, Belarus ở phía bắc, Ba Lan và Slovakia về phía Tây, Hungary ở phía nam và Romania và Moldova ở phía tây và nam. Người Do Thái đã có lịch sử lâu đời ở Ukraine và ngày nay dân số Do Thái ở Ukraine là khoảng 70.000 người, biến nơi đây trở thành cộng đồng Do Thái lớn thứ mười một trên thế giới.
Các khu định cư của người Do Thái ở Ukraine có thể bắt nguồn từ thế kỷ thứ 8. Trong thời kỳ của vương quốc Khazar, người Do Thái sống trên bờ sông Dnieper và ở phía đông và nam của Ukraine và Crimea. Đây là vương quốc được coi là có ảnh hưởng nhất trong thời kỳ trung cổ vì vị thế kinh tế và ngoại giao của nó. Những người Khazars, một tộc người Turkic du mục cổ đại đến vùng hạ lưu sông Volga vào thế kỷ thứ 6, được giáo hoàng và các nhà lãnh đạo quốc gia khác coi trọng và đóng một vai trò quan trọng trong việc giải quyết các cuộc xung đột trong khu vực. Đế chế Khazars, vào thời kỳ đỉnh cao giữa thế kỷ 8 và 10, có lãnh thổ kéo dài từ bờ biển phía bắc của Biển Đen và Biển Caspi đến tận phía tây Kiev. Những người tị nạn Do Thái từ các vùng Byzantium, Persia và Mesopotamia chạy trốn khỏi sự đàn áp bởi những Cơ Đốc nhân trên khắp châu Âu, và định cư tại Vương quốc này vì người Khazars cho phép họ thực hành tôn giáo của riêng mình.
Theo thời gian, người Do Thái hòa nhập vào xã hội và kết hôn với cư dân Khazar. Lúc đầu, nhiều người Khazars từ các gia đình hoàng tộc theo Do Thái giáo. Ngay sau đó, các công dân khác trên khắp Vương quốc cũng tin theo, áp dụng các thực hành tôn giáo của người Do Thái, chẳng hạn như đọc kinh Torah, tuân giữ ngày Sa-bát, giữ nghi lễ và chuyển sang dùng chữ viết Do Thái là hệ thống chữ viết chính thức. Trong thời khắc khe về tôn giáo, người Do Thái ở Khazaria đã góp phần xây dựng một quốc gia hùng mạnh, đồng thời chung sống trong hòa bình.
Người Do Thái ở Khazaria có thể nằm trong số những người sáng lập ra cộng đồng Do Thái ở Ba Lan và các cộng đồng khác ở Đông Âu.
Khi người Do Thái phát triển hơn, chủ nghĩa bài Do Thái cũng phát triển không kém. Các tầng lớp thấp hơn trong đất nước, bao gồm cả người Cossack ở Ukraine, cho rằng người Do Thái giúp cho các lãnh chúa trở nên giàu có, và cáo buộc người Do Thái cướp của người nghèo để làm giàu hơn cho chủ của họ. Vào cuối thế kỷ XVI, Ba Lan tìm cách kiểm soát nhiều hơn đối với người Cossack ở Ukraine, những người đã nổi lên chống lại các chủ đất Ba Lan và người Do Thái. Cuộc sống của những người Do Thái từ đó thay đổi theo hướng tồi tệ hơn bao giờ hết.”
(Còn tiếp…)
Giáo sĩ Willem J. J. Glashouwer
Chủ tịch Cơ Đốc Nhân vì Israel Quốc tế
Chủ tịch danh dự Liên Minh Châu Âu vì Israel
Biên Dịch Cơ Đốc Nhân Vì Israel Quốc Tế
Từ hội thánh Tê-sa-lô-ni-ca tới chúng ta ngày nay
Hai ngàn năm đã trôi qua kể từ khi Phao lô viết hai bức thư cho hội thánh Tê-sa-lô-ni-ca. Đế quốc La Mã, và thành phố cổ Tê-sa-lô-ni-ca, giờ đã trở thành một đống đổ nát. Bạn có thể mua vé đi tham quan di tích này. Các vị thần Hy Lạp, La Mã – từng là đối tượng để thờ phượng, cống hiến, hiến tế và hy vọng đã được đưa vào các viện bảo tàng và những bộ phim của Disney. Trong khi đó, Tin Lành đã lan rộng từ Giê-ru-sa-lem tới Giu-đê và Sa-ma-ri cho tận cùng trái đất (Công vụ 1:8).
Rất ít điều đã thay đổi
Đã có rất nhiều sự thay đổi trên thế giới kể từ khi hội thánh Tê-sa-lô-ni-ca nhóm lại để nghe những bức thư này từ vị sứ đồ mà họ yêu mến. Tuy nhiên, bằng nhiều cách, rất ít sự thay đổi. Chúng ta có thật sự khác biệt không? Chúng ta cũng cần sự khích lệ (I Tê-sa-lô-ni-ca 1:2-10). Chúng ta cũng cần sự liêm chính (I Tê-sa-lô-ni-ca 2:1-16). Chúng ta cũng cần tình yêu thương (I Tê-sa-lô-ni-ca 2:17-3: 13). Chúng ta cũng cần thử thách (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:1-12). Chúng ta cũng cần hy vọng (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:13- 5: 11). Chúng ta cũng cần nhân cách tốt (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:12-28). Chúng ta cũng cần bảo đảm (II Tê-sa-lô-ni-ca 1:1-12). Chúng ta cũng cần sửa trị (II Tê-sa-lô-ni-ca 2:1-12). Chúng ta cũng cần cầu nguyện (II Tê-sa-lô-ni-ca 2:13-3: 5). Chúng ta cũng cần có sự hối thúc (II Tê-sa-lô-ni-ca 3:6-3:15). Chúng ta cũng cần bình an (II Tê-sa-lô-ni-ca 3:16). Và từ ban đầu cho đến cuối cùng, chúng ta cũng cần ân điển (I Tê-sa-lô-ni-ca 1:1, 5:28, II Tê-sa-lô-ni-ca 1:2, 3:18).
Tê-sa-lô-ni-ca nhất và nhì là một trong những sách đầu tiên mà chúng ta có về sự hình thành của các hội thánh Tân Ước. (Chỉ có Gia-cơ và Ga-la-ti đã được viết trước đó). Tuy nhiên, dù đã trải qua hai thiên niên kỷ, những lá thư này vẫn còn thích hợp cho đến ngày nay. Những người ở Tê-sa-lô-ni-ca phải đối mặt với sự chống đối một cách mạnh mẽ vì niềm tin của họ (II Tê-sa-lô-ni-ca 1:1-12); nhiều tín hữu trên toàn thế giới cũng đã trải qua những kinh nghiệm tương tự, và chúng ta là những người phương Tây hay phương Đông cũng ngày càng kinh nghiệm tương tự. Những người ở Tê-sa-lô-ni-ca theo đuổi sự thánh khiết một cách uể oải (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:1-7); nhiều người trong chúng ta cũng vậy. Những người ở Tê-sa-lô-ni-ca có một niềm tin không ổn định vì họ đã hiểu sai về niềm hy vọng của mình trong tương lai (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:11, 2 Tê-sa-lô-ni-ca 2:1-17); nhiều người trong chúng ta cũng đang sống với sự thiếu hiểu biết tương tự. Bởi vì chúng ta rất ít khi có tâm trí thiên đàng, chúng ta thường đặt mình vào những điều nhỏ bé của thế gian.
Sức mạnh cho ngày hôm nay, hy vọng cho ngày mai
Thế gian không nên nhìn thấy chính nó phản chiếu ở trong hội thánh. Thay vào đó, nó phải thấy cách sống mà không nơi nào có. Nó sẽ nhìn thấy ân điển của Chúa Giê-xu, đã đổ huyết cho những tội nhân hèn mọn, bằng một tình yêu không vị kỷ. Những người bạn và những người hàng xóm không cùng niềm tin của chúng ta đang kêu gào vì những điều không bao giờ làm cho họ thoả mãn. Họ không hề biết tại sao họ lại có mặt trên đất và cũng không hề biết họ sẽ đi về nơi nào. Những điều đang đợi họ sau ngôi mộ là những điều thật đáng sợ, không đẹp chút nào.
Tê-sa-lô-ni-ca nhất và nhì công bố một cách lớn tiếng tin tức về sự cứu rỗi – sự giải cứu khỏi cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời thông qua dòng huyết báu của Con Ngài – đây là điều hoàn toàn có thể nhận được, hoàn toàn miễn phí, cho tất cả những ai quay trở về, tin cậy và trân quý cứu Chúa Giê-xu. Những lá thư này cũng công bố một cách lớn tiếng rằng Chúa Thánh Linh đến và ngự vào trong tấm lòng của mỗi Cơ Đốc nhân, thêm sức cho chúng ta để chúng ta có thể bước đi một cách xứng đáng với Đức Chúa Trời. Và những lá thư còn công bố một cách lớn tiếng rằng thế giới trong tương lai sẽ luôn khác với thế giới hiện tại. Một ngày nào đó, vua Giê-xu sẽ hiện ra trên các tầng trời và trở về với dân của Ngài, thiết lập lại sự công bình và làm mới lại mọi sự.
Cùng với nhau, các bức thư này tạo thành tám chương bác bỏ những ý kiến cho rằng cõi đời sau là không thực tế. Không phải vậy. Học về cõi đời sau để khích lệ và thêm sức cho mỗi chúng ta (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:18, 5:11). Cõi đời sau cũng có liên quan đến đạo đức: những phẩm chất của Cơ Đốc nhân không hình thành từ hư không, nhưng được bắt đầu bởi sự thương xót từ quá khứ và được gìn giữ bởi hy vọng trong tương lai. Nếu bạn cần “sức mạnh cho ngày hôm nay và hy vọng cho ngày mai,” I-II Tê-sa-lô-ni-ca là một món quà từ Thượng Đế cho bạn.
Dịch: Sam
Nguồn: crosswalk.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Các Nhà Khảo Cổ Tuyên Bố Tìm Thấy Văn Bản Tiếng Do Thái Cổ Nhất Ở Israel, Bao Gồm Cả Danh Xưng Của Đức Chúa Trời
Tiến sĩ khảo cổ học Scott Stripling và một nhóm các học giả quốc tế đã tổ chức một cuộc họp báo vào hôm thứ Năm (ngày 24 tháng 03) tại Houston, Texas, công bố những gì mà ông cho là bản chữ cái đầu tiên của tiếng Do Thái cổ—bao gồm danh xưng của Đức Chúa Trời, “YHWH”—từng được phát hiện ở Israel cổ đại. Văn bản này được tìm thấy ở Núi Ê-banh, được biết đến từ Phục-truyền Luật-lệ Ký 11:29 như một ngọn núi của sự nguyền rủa.
Nếu niên đại của Thời-đại Đồ-đồng muộn (khoảng năm 1200 trước Chúa) đã được xác minh, thì “bản khắc lời nguyền” nhỏ xíu, kích thước 2cm x 2cm này có thể là một trong những khám phá khảo cổ học vĩ đại nhất từ trước đến nay. Đây sẽ là lần đầu tiên việc sử dụng danh Chúa tại vùng đất của Israel được chứng thực và quay ngược thời gian để chứng minh người Y-sơ-ra-ên đã có chữ viết trong vài thế kỷ—cho thấy rằng người Y-sơ-ra-ên đã biết chữ khi họ vào Đất Thánh, và do đó có thể họ đã viết Kinh Thánh như một cách để ghi lại một số sự kiện đã xảy ra.
“Đây là văn bản 1.000 năm có một,” Giáo-sư Gershon Galil của Đại-học Haifa nói với The Times of Israel hôm thứ Năm. Galil đã giúp giải mã nội dung ẩn bên trong của bản khắc chì dựa trên phương pháp quét chụp cắt lớp được thực hiện ở Prague tại Học-viện Khoa-học Cộng-hòa Séc.
Dựa trên phân tích về các bản quét và phân tích chì của hiện vật, Stripling và nhóm của mình xác định niên đại của bản khắc là vào cuối Thời-đại Đồ-đồng, trước hoặc khoảng năm 1200 trước Chúa. Theo đó đây chính là văn bản cổ xưa hơn hàng thế kỷ so với văn bản trước đó được ghi nhận là văn bản tiếng Do Thái cổ nhất ở Israel. Danh Chúa ở đây cũng sớm hơn 500 năm tuổi so với phát hiện trước đây về danh “YHWH” đã được chứng thực trước đó. Chữ viết từ một bảng chữ cái tương tự đã được phát hiện ở bán đảo Si-nai có niên đại vào đầu thế kỷ 16 TCN.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu vẫn chưa công bố phát hiện này trên một tạp chí dành cho các nhà phê bình. Tương tự như vậy, họ vẫn chưa công bố những hình ảnh rõ ràng và bản quét của dòng chữ để các học giả khác cân nhắc.
Thách thức trong việc xác định niên đại an toàn của vật thể là trên thực tế bản khắc này không được phát hiện trong bối cảnh phân tầng được khai quật cẩn thận. Thay vào đó, nó được tìm thấy trong một cuộc kiểm tra lại phần đất đã đào lên vào ăm 2019 từ một đống rác thải được hình thành trong cuộc khai quật những năm 1980 tại Núi Ê-banh dưới sự chỉ đạo của Giáo-sư Adam Zertal. Sau đó, đất đã được phơi khô và sàng sảy rồi vào năm 2019, nhóm của Stripling đã sàng lọc lại bằng kỹ thuật sàng ướt được phát triển tại Dự-án sàng lọc Núi Đền, nơi Stripling từng làm việc. Stripling hiện lãnh đạo các cuộc khai quật đang diễn ra tại địa điểm gọi là Si-lô trong Kinh Thánh.
Các nhà khảo cổ khi được The Times of Israel tiếp cận đã không sẵn lòng bình luận về những ghi chép của họ cho đến khi xem xét bản quét và tài liệu nghiên cứu đầy triển vọng sẽ ra mắt trong thời gian sắp tới.
“Có một chút sai lầm khi thực tế là họ đã cho đăng trên tin tức trước khi giới khoa học công nhận và đồng ý cho xuất bản,” một học giả cho biết. Một người khác cảnh báo rằng vì anh không thể tự mình xem dòng chữ, nên không thể biết liệu những tuyên bố đó là sự thật hay là một trường hợp của “trí tưởng tượng thái quá”.
Tuy nhiên, cả hai người hoài nghi đều nói rằng “mọi thứ đều có thể xảy ra” và “điều đó có thể hợp lệ”, mặc dù hình ảnh vẫn chưa được công bố.
Mặc dù việc quảng bá một nghiên cứu chưa được xuất bản trên tạp chí học thuật là không thường xảy ra, Galil lưu ý rằng nhóm cảm thấy có nghĩa vụ phải chia sẻ tin tức về sự tồn tại của bản khắc này và những phát hiện ban đầu của họ vì khả năng thay đổi lịch sử của nó.

Một bản khắc lời nguyền trên ngọn núi của sự nguyền rủa
Bản khắc lời nguyền được phát hiện trong đất, ban đầu được lấy từ một địa điểm thờ tự ở Núi Ê-banh, gần Si-chem trong Kinh Thánh và ngày nay là Nablus. Núi Ê-banh xuất hiện trong Phục-truyền Luật-lệ Ký 11:29 như một nơi của “những lời nguyền rủa” và được một số Cơ-đốc nhân và người Do Thái tôn kính là nơi mà Giô-suê trong Kinh Thánh đã xây dựng một bàn thờ theo mạng lệnh đã ban ra trong Phục-truyền Luật-lệ Ký 27. Bàn thờ này được mô tả trong Giô-suê 8:31 là “một bàn thờ bằng đá nguyên khối, sắt chưa đụng đến. ”
Địa điểm được người dân địa phương gọi là “Al-Burnat” hay “mũ chóp” trong tiếng Ả Rập và được các nhà khảo cổ học coi là một minh họa cực kỳ hiếm và quan trọng về sự định cư của người Israel thời kỳ đầu. Đây là phát hiện duy nhất trong khu vực. Các nhà khảo cổ nhất trí xác định niên đại của địa điểm thờ tự này rõ ràng là vào đầu Thời-kỳ Đồ-sắt, vào khoảng thế kỷ 11 TCN, hoặc khi dân Y-sơ-ra-ên bắt đầu định cư trong xứ Ca-na-an. Các nhà khảo cổ học khác thì đẩy niên đại đó trở lại thế kỷ 12 hoặc cuối Thời-đại Đồ-đồng.

Giáo-sư Israel Finkelstein, một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới về định cư Thời-kỳ Đồ-sắt trong khu vực cho biết: “Đây là một địa điểm quan trọng, thuộc về làn sóng định cư ở vùng cao nguyên trong giai đoạn đầu của Thời-kỳ Đồ-sắt.” Finkelstein nói với The Times of Israel vào tháng 2 năm 2021 khi có cáo buộc rằng Núi Ê-banh đang bị phá hủy bởi các thị trấn Ả Rập địa phương trong quá trình xây dựng một con đường.
“Theo như tôi có thể đánh giá, nó có niên đại từ thế kỷ 11 TCN. Như vậy, điều này có thể được hiểu là đại diện cho các nhóm người đã thành lập nên Vương-quốc Y-sơ-ra-ên (Vương-quốc phía Bắc) vào thế kỷ thứ 10 TCN. Nói cách khác, đây là một địa điểm của Y-sơ-ra-ên xưa, ” ông nói với The Times of Israel.
Cố Giáo-sư của Đại-học Haifa, Zertal, đã khai quật địa điểm này vào những năm 1980, bao gồm một bàn thờ hình chữ nhật lớn được xây dựng trên một bàn thờ tròn trước đó. Stripling cho biết bản khắc này được tìm thấy từ đống đất ban đầu được khai quật từ bàn thờ tròn này.

“Ngay khi tôi nhìn thấy nó [bản khắc], tôi đã biết nó là gì vì những bản khắc lời nguyền này đã được biết đến. Trái tim tôi gần như nhảy ra khỏi lồng ngực,” Stripling nói.
Ngoài thực tế về một bản khắc bằng tiếng Do Thái cổ— nếu không muốn nói là cổ nhất—được tìm thấy ở vùng đất của Israel, Galil nói với The Times of Israel rằng điều này sẽ giúp chấm dứt cuộc thảo luận học thuật đang diễn ra về việc liệu người Y-sơ-ra-ên ngày xưa có biết chữ hay không.
Galil nói, “Chúng ta biết rằng ngay từ khi vào Xứ Hứa, dân Y-sơ-ra-ên đã biết viết, kể cả danh của Đức Chúa Trời. Điều đó không quá ngạc nhiên; người ta đã biết viết từ trước đó rồi,” ông nói thêm.

Bản quét được đọc bởi Galil và Pieter Gert van der Veen của Đại-học Johannes Gutenberg. Nói với The Times of Israel, Stripling cho biết bài đọc bao gồm các từ “arur” (bị nguyền rủa) và “YHWH” (bao gồm ba chữ cái chính của danh Chúa trong tiếng Hê-bơ-rơ).
“Chúng tôi đã khôi phục được 40 chữ cái, 40 chữ cái ở bên trong và bên ngoài bản khắc. Và tất cả chúng đều nằm trong hệ thống chữ cái cổ xưa có từ Thời-kỳ Đồ-đồng muộn này, ” Stripling nói.
Galil nói với tờ The Times of Israel rằng văn bản này phần lớn được viết bằng hệ thống chữ của người Ca-na-an cổ xưa, với một số chữ tượng hình. Niên đại mới nhất theo phân tích đồ họa là vào khoảng thế kỷ 12, trong khi một số còn có niên đại sớm hơn.
Ông cho rằng phần lớn văn bản bằng tiếng Do Thái được người Y-sơ-ra-ên viết như một văn bản pháp lý nội bộ, một dạng khế ước xã hội, cảnh báo người theo hợp đồng điều gì sẽ xảy ra nếu anh ta không hoàn thành nghĩa vụ của mình.

Theo các nhà nghiên cứu, những chữ trên bản khắc đó đọc ra là: “Đáng rủa sả thay, đáng rủa sả thay, đáng rủa sả thay – Chúa YHW nguyền rủa ngươi / Ngươi sẽ chết vì bị nguyền rủa. Khi bị nguyền rủa ngươi chắc chắn sẽ chết. / Bị nguyền rủa bởi YHW – đáng rủa sả thay, đáng rủa sả thay, đáng rủa sả thay.”
Galil cho biết cấu trúc vòng lặp song song này được tìm thấy ở những nơi khác trong Kinh Thánh, cũng như trong các văn bản của khu vực Cận Đông khác vào thời kỳ đó và thậm chí là trước đó. Nhưng cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn cho rằng Kinh Thánh chỉ được viết ra—chứ không phải là sáng tác—hàng trăm năm sau khi xác định niên đại của văn bản này.
“Bây giờ chúng ta thấy rằng ai đó có thể viết theo kiểu cấu trúc vòng này” vào thế kỷ 12 TCN. Ông nói, không nên bàn về việc liệu dân Y-sơ-ra-ên có biết chữ vào thời Vua Đa-vít hay không.
“Người viết văn bản này có khả năng viết mọi văn bản khác trong Kinh Thánh,” Galil nhấn mạnh.
Dịch: Eunice Tu
Nguồn: timesofisrael.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Hầu hết chúng ta đều muốn tin rằng cha mẹ mình đã cố gắng hết sức, nhưng do bản chất tội lỗi sa ngã của con người (Rô-ma 3:23), ngay cả những bậc cha mẹ tin kính nhất cũng có thể phạm sai lầm.
Ba mẹ tôi thường xuyên đọc các bài viết của tôi trên Crosswalk; nên để tránh làm cho họ ngượng ngùng, và có thể dẫn đến một cuộc trò chuyện khó xử sau này, tôi sẽ không nói quá sâu về việc tôi đã bị cha mẹ mình làm tổn thương từ thời thơ ấu như thế nào .
Nhiều vấn đề trước mắt đã được giải quyết với họ, còn những vấn đề còn lại, tôi tiếp tục vật lộn và cố diễn đạt chúng thành lời trước khi có thể nói chuyện thẳng thắng hơn với họ về những vấn đề đó.
Tôi nghĩ hầu hết những người có cha mẹ, có thể là cha mẹ ruột hoặc cha mẹ nuôi, ít nhiều đều có thể nói rằng họ đã có những khuyết điểm dẫn đến những tổn thương cho chúng ta. Có thể chúng ta thậm chí đã cố gắng thay đổi cách nuôi dạy con cái của chính mình để tránh những sai lầm tương tự.
Trong bài viết này, chúng ta sẽ đi sâu vào một số lý do khiến cha mẹ có thể làm tổn thương con cái mình (vô tình hoặc cố ý), Kinh Thánh nói gì về việc tha thứ cho cha mẹ và cách chúng ta có thể hòa giải.
Tại sao cha mẹ lại làm tổn thương con cái của mình?
Dù cố ý hay không, thì hầu hết con trẻ đều mang một vết sẹo nào đó từ thời thơ ấu. Có thể cha mẹ của họ là những người nghiện công việc và không dành đủ thời gian cũng như sự quan tâm cho họ. Có lẽ cha mẹ đã đặt quá nhiều áp lực lên con trẻ về sự thành công, và cuối cùng đứa trẻ rơi vào trạng thái lo lắng và cầu toàn trong nỗ lực giành được tình cảm của cha mẹ.
Hoặc có thể cha mẹ làm tổn thương trẻ về mặt thể chất hoặc tâm lý thông qua việc lạm dụng, những vết thương mà một người có thể mang theo suốt đời.
Danh sách dưới đây không có nghĩa là tất cả; luôn có những ngoại lệ. Nhưng chúng ta có thể đưa ra một vài lý do tại sao cha mẹ lại làm tổn thương chúng ta.
Đầu tiên, có thể họ muốn tránh điều gì đó mà cha mẹ họ đã làm đối với họ.
Nếu cha mẹ họ không bao giờ đến dự các sự kiện thể thao của họ hoặc không bao giờ thực sự quan tâm đến điểm số của họ, có thể họ sẽ có xu hướng bị ám ảnh để làm ngược lại và bắt đầu tập trung quá mức vào việc đảm bảo rằng họ phải dự phần vào tất cả những hoạt động mà con cái họ tham gia, đến mức gây khó chịu cho người khác.
Có lẽ họ đã có một người cha người mẹ quá nuông chiều con cái, nên họ quyết định phải dạy con bằng nắm đấm sắt. Hoặc ngược lại.
Các thế hệ có xu hướng nổi loạn chống lại các thế hệ trước và chúng ta chứng kiến điều này khi nói đến mối quan hệ cha mẹ – con cái.
Thứ hai, có thể những vết thương của họ vẫn chưa lành.
Có lẽ cha mẹ đã mang theo một vết thương nghiêm trọng từ thời thơ ấu vào trong cuộc hôn nhân của mình. Các tín hữu Cơ-đốc thường nhầm lẫn tin rằng hôn nhân có thể giải quyết mọi vấn đề. Nhưng không. Trên thực tế, chúng thường làm trầm trọng thêm mọi vấn đề.
Nếu cha mẹ không chữa lành vết thương thời thơ ấu đúng cách, thậm chí đó có thể là vết thương do chính cha mẹ của họ để lại, họ có thể dự tính hoặc đặt những kỳ vọng nhất định vào con cái của mình. Những kỳ vọng đó có thể không bao giờ trở thành hiện thực như họ mong đợi.
Điều đó giống như những gì mà mọi tiếp viên hàng không thường nói với chúng ta trước khi máy bay cất cánh: “Hãy đeo mặt nạ dưỡng khí vào cho quý vị trước khi giúp con của quý vị”.
Khi cha mẹ không đeo mặt nạ dưỡng khí, họ sẽ không thể thở và do đó, họ không thể giúp con mình. Trên thực tế, họ có thể sẽ làm tổn thương các con.
Cuối cùng, có thể cha mẹ không hoàn toàn ý thức được rằng họ đã làm tổn thương hoặc đang làm tổn thương con cái của mình.
Tất cả chúng ta đều có những điểm mù và có xu hướng tập trung hướng nội. Thông thường, chúng ta không thấy hành động của mình có thể ảnh hưởng đến những người xung quanh như thế nào.
Ngay cả những bậc cha mẹ với ý tốt cũng có thể vô tình làm tổn thương con cái của họ theo một cách nào đó. Có lẽ những thói quen độc hại mà họ có được hoặc những tấm gương cha mẹ tồi tệ mà họ đã chứng kiến (1 Cô-rinh-tô 15:33) đã ảnh hưởng đến phong cách nuôi dạy con cái của họ.
Tất nhiên, chúng ta có thể liệt kê hàng tá lý do khác để giải thích tại sao những bậc làm cha làm mẹ lại có thể làm tổn thương con mình. Nhưng sự thật của vấn đề là hầu hết chúng ta đều không thể trải qua tuổi thơ mà không bị lấy một vết thương nào. Vậy thì chúng ta phải làm gì với nó?
Kinh Thánh nói gì về việc tha thứ cho cha mẹ của chúng ta?
Kinh Thánh nói rất nhiều về việc vâng lời cha mẹ.
Nhưng còn về việc tha thứ cho họ thì sao?
Chúng ta không có bất kỳ câu Kinh Thánh cụ thể nào như là “Đây là cách bạn tha thứ cho cha mẹ, những người đã làm sai với bạn”, nhưng chúng ta có thể chỉ ra một số phân đoạn nói về việc tha thứ cho những người đã làm điều sai quấy với mình. Hãy cùng khám phá những câu này.
Ma-thi-ơ 6:14-15, “Nếu các con tha lỗi cho người ta, thì Cha các con ở trên trời cũng sẽ tha thứ cho các con. Nhưng nếu các con không tha lỗi cho người ta, thì Cha các con ở trên trời cũng sẽ không tha thứ cho các con.”
Mác 11:25, “Khi các con đứng cầu nguyện, nếu có chuyện bất bình với ai thì hãy tha thứ, để Cha các con ở trên trời cũng tha thứ những vi phạm của các con.”
Ê-phê-sô 4:31-32, “Hãy loại bỏ khỏi anh em những sự cay đắng, phẫn nộ, tức giận, la lối, lăng mạ, cùng mọi điều hiểm độc. Hãy cư xử với nhau cách nhân từ và dịu dàng, tha thứ nhau như Đức Chúa Trời đã tha thứ anh em trong Đấng Christ vậy.”
Kinh Thánh nói rất rõ rằng chúng ta nên tha thứ cho tất cả mọi người, đặc biệt là những người làm tổn thương chúng ta. Nhưng làm thế nào để chúng ta thực hiện được điều này?
4 cách để tha thứ cho cha mẹ của mình
Chúng ta cần thêm một lưu ý ở đây rằng sự tha thứ không phải lúc nào cũng có nghĩa là thân thiết trở lại. Chúng ta có thể tha thứ cho những người mà chúng ta cần phải tránh xa, rất xa. Và đáng buồn thay, đối với nhiều người, điều này bao gồm cả các bậc cha mẹ.
Như đã nói, hãy cùng khám phá một số cách để tha thứ cho cha mẹ chúng ta và hướng tới con đường hòa giải. Biết rằng họ có thể sẽ không muốn cùng đi với bạn trên con đường đó. Nhưng hãy dâng hết mọi sự trong tay Chúa nếu trường hợp đó xảy ra và biết rằng bạn đã làm tất cả những gì có thể để giúp hàn gắn mối quan hệ.
1. Nhận ra Chúa đã sử dụng cha mẹ bạn để uốn nắn bạn như thế nào.
Khi nói về sự tha thứ chúng ta nghĩ ngay đến tấm gương của Giô-sép. Các anh của chàng đã bán chàng làm nô lệ, và chàng phải một mình lưu lạc ở Ai Cập trong suốt thời thơ ấu và những ngày đầu trưởng thành. Tuy nhiên, vì họ đã đặt chàng vào tình huống này, Đức Chúa Trời đã sử dụng Giô-sép để cứu Ai Cập và các xứ xung quanh khỏi nạn đói.
Sau đó, chàng đã chủ động hòa giải với chính những người anh đã bán mình làm nô lệ.
2. Hãy cầu nguyện cho cha mẹ và nhận ra rằng họ đã bị tổn thương như thế nào.
Kinh Thánh dạy chúng ta phải cầu nguyện cho kẻ thù của mình (Ma-thi-ơ 5:44), và đôi khi, điều này được áp dụng cho cha mẹ của chúng ta. Chúng ta cũng cần hiểu rằng những người bị tổn thương thường gây tổn thương cho người khác hoặc tự làm tổn thương chính họ.
Chúng ta có thể là niềm hy vọng duy nhất của cha mẹ khi nói cho họ nghe về Chúa Giê-xu Christ hoặc giúp họ có cơ hội để đổi mới đức tin của mình nếu họ không đi đúng hướng. Vì vậy, hãy cầu nguyện cho họ.
3. Góp ý họ bằng tình yêu thương.
Trong các trường hợp kỷ luật của hội thánh, Kinh Thánh dạy chúng ta phải đến gặp người đã làm điều sai quấy với mình trước khi đưa bất kỳ ai khác vào cuộc (Ma-thi-ơ 18:15). Thành thật nói cho họ biết rằng họ đã làm tổn thương bạn như thế nào, nhưng động cơ cũng như mục đích của chúng ta nên là tha thứ và hòa giải.
4. Biết rằng việc hòa giải cần cả hai phía.
Bạn có thể cố gắng làm mọi cách để hòa giải với cha mẹ, nhưng họ có thể từ chối. Họ có thể từ chối thừa nhận những tổn thương mà họ đã gây ra cho bạn và phần lỗi của họ.
Trong những trường hợp đau lòng đó, hãy tiếp tục nhiệt thành cầu nguyện để Chúa xoa dịu tấm lòng họ.
Không có cha mẹ nào là hoàn hảo. Nhiều người có ý tốt, nhưng cuối cùng họ vẫn khiến chúng ta bị tổn thương.
Kinh Thánh khích lệ chúng ta tha thứ cho những người đã làm tổn thương chúng ta. Phần chúng ta là tha thứ, nhưng hòa giải cần cả hai phía. Bất kể điều gì xảy ra khi chúng ta dang tay tha thứ, chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời đã có kế hoạch cho mối quan hệ của chúng ta với cha mẹ và Ngài đang hành động, ngay cả khi chúng ta chưa thể nhìn thấy kết quả.
Dịch: Eunice Tu
Nguồn: crosswalk.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Ba Mẹ Ơi, Con Xin Hỏi – Phần 86: Tại Sao Lại Có Chiến Tranh?
Như con đã biết, người lính phục vụ Chúa khi họ bảo vệ đất nước. Con nhớ phải tôn trọng những người ở trong quân đội. Công việc của họ rất nguy hiểm. Đôi khi họ còn mất mạng nữa. Họ có thể bị thương rất nặng. Rồi sau đó sống trọn đời với vết thương đấy. Nên con phải tôn trọng họ bởi sự dũng cảm và hi sinh của họ.
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi lãnh đạo đều sai lính đi vào trận chiến vì mục đích tốt đẹp. Có những người rất tham lam. Họ muốn chiếm đất, dầu mỏ, hay nguồn nước thuộc về quốc gia khác. Hoặc họ muốn trả thù vì một số điều quốc gia khác đã làm trong quá khứ. Nên họ sai quân đội đến các nước đấy. Kinh Thánh nói rằng, “Những điều chiến đấu tranh cạnh trong anh em bởi đâu mà đến? Há chẳng phải từ tình dục anh em vẫn hay tranh chiến trong quan thể mình sao? Anh em tham muốn mà chẳng được chi; anh em giết người và ghen ghét mà chẳng được việc gì hết; anh em có sự tranh cạnh và chiến đấu; anh em chẳng được chi, vì không cầu xin” (Gia-cơ 4:1-2).
Liên Hợp Quốc thường sai binh lính đến từ nhiều quốc gia đi tới các vùng chiến tranh. Họ đi vào giữa hai đội quân để ngăn cản họ đánh nhau. Đôi khi một đất nước bị chia cắt và mọi người ở trong đất nước đó đang chiến đấu với nhau. Cái này được gọi là nội chiến. Binh lính Liên Hợp Quốc tiến vào một quốc gia để gìn giữ hòa bình. Dù đây thường là một việc rất khó.
Tại sao các quốc gia có nội chiến? Thường thì bởi vì người dân trong nước đến từ các chủng tộc khác nhau. Với người Israel xưa, người Do Thái và người Sa-ma-ri ghét nhau. Họ cố gắng không liên hệ đến nhau. “Dân Giu-đa chẳng hề giao thiệp với dân Sa-ma-ri” (Giăng 4:9). Có những lúc họ giận nhau và đánh nhau. Một số quốc gia có nội chiến vì dân ở đó sử dụng các ngôn ngữ, tôn giáo hay chính trị khác nhau.
Những kẻ khủng bố ngập tràn sự thù ghét người khác. Họ làm những điều bạo lực để khiến người ta sợ hãi. Họ nghĩ làm vậy sẽ khiến Chúa vui nếu họ giết nhiều người. Họ không biết Chúa chút nào. Họ không biết rằng, “Đức Chúa Trời là sự yêu thương” (1 Giăng 4:8).
Chiến tranh tạo ra rất nhiều nan đề. Khi quân đội chiến đấu, nông dân không thể trồng trọt. Họ không thể trồng trọt hay thu hoạch mùa màng. Nên con người sẽ bị chết đói. Gần 870 triệu người trên thế giới nhịn đói đi ngủ mỗi đêm. Và có 15 triệu trẻ em chết đói mỗi năm. Nguyên nhân chủ yếu là bởi chiến tranh. Chiến tranh thật là một điều kinh khủng!
*****
Người lính tham gia chiến tranh có phải là đang làm điều tốt không?
Có những người lính đang chiến đấu cho những trận chiến vụ lợi đúng không? Điều gì đã làm cho những cuộc chiến vụ lợi vậy?
Nguồn: Viện Đào Tạo Môn Đồ Việt Nam
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com