Palestine (Phần tiếp)
Không có nơi nào trong Kinh thánh vùng đất Ca-na-an được gọi là Palestine. Tên đó bắt nguồn từ tên của người Phi-li-tin, kẻ thù không đội trời chung của Y-sơ-ra-ên trong Cựu ước. Hoàng đế La Mã Hadrianus căm thù người Do Thái đến mức ông gọi tỉnh này là Palestine, cố tình đặt tên khu vực này theo tên kẻ thù của Y-sơ-ra-ên: người Phi-li-tin. Hadrian (76-138) là Hoàng đế La Mã từ năm 117 đến năm 138. Ông đã xây dựng lại Điện Pantheon ở La Mã, và xây dựng Đền thờ Thần Vệ nữ và Roma. Ông cũng được biết đến với việc xây dựng Bức tường Hadrian, đánh dấu giới hạn phía bắc của vùng đất Anh thuộc La Mã. Hadrian được một số người coi là một nhà nhân văn và là một philhellene, có nghĩa là “người yêu chủ nghĩa Hy Lạp”, trong hầu hết các sở thích của ông.
Trong thời gian trị vì của mình, Hadrian đã đi đến gần như mọi tỉnh trong Đế chế của mình. Là một người hâm mộ Hy Lạp nhiệt thành, ông đã tìm cách biến Athen trở thành thủ đô văn hóa của Đế chế, và ra lệnh xây dựng nhiều ngôi đền sang trọng trong thành phố. Ông đã sử dụng mối quan hệ của mình với người tình Hy Lạp Antinous để nhấn mạnh tình yêu dành cho Hy Lạp của mình, và điều này dẫn đến việc tạo ra một trong những sự sùng bái phổ biến nhất thời cổ đại. Ông dành nhiều thời gian cho quân đội, thường mặc trang phục quân đội và thậm chí ăn và ngủ giữa những người lính.
Gần 2000 năm trước, Hoàng đế La Mã Hadrianus đã nguyền rủa Dân Do Thái và ra lệnh rằng Giu-đê từ nay nên được gọi là “Palestine” theo tên của người Phi-li-tin. Kẻ thù truyền kiếp này của Y-sơ-ra-ên đã biến mất khỏi thế giới hơn 600 năm trước đó. Đó là nhát dao cuối cùng của Hadrian và di sản của ông ta sau các cuộc chiến tranh, thảm sát, bắt bớ và lưu vong đã phần lớn dập tắt sự hiện diện của người Do Thái ở Giu-đê. Syria Palaestina là một thuộc địa của La Mã từ năm 135 đến năm 390 SCN. Nó được thành lập bởi sự hợp nhất của Syria La Mã và Giu-đê La Mã, nhằm xóa bỏ mối quan hệ giữa người Do Thái và quê hương của họ sau sự thất bại của Cuộc nổi dậy Bar Kokhba vào năm 135 SCN. Không lâu sau năm 193 SCN, các khu vực của Syria bị chia cắt thành Syria Coele ở phía bắc và Phoenice ở phía nam, và tỉnh Palaestina Syria được chuyển thành Giu-đê.
Không ai có thể tìm thấy cái tên “Palestine” trong Kinh thánh. Vùng đất hứa được gọi là “Ca-na-an” hoặc “Y-sơ-ra-ên”. Nhưng thậm chí cho đến bây giờ, Liên hợp quốc vẫn giữ tên Palestine cho khu vực này.
(Còn tiếp…)
Giáo sĩ Willem J. J. Glashouwer
Chủ tịch Cơ Đốc Nhân vì Israel Quốc tế
Chủ tịch danh dự Liên Minh Châu Âu vì Israel
Biên Dịch Cơ Đốc Nhân Vì Israel Quốc Tế
Chuyên Đề
5 Điều Gia Đình Đặt Đấng Christ Làm Trung Tâm Thường Làm Hơn Những Gia Đình Khác
Một điều tôi luôn ao ước và cầu nguyện từ khi còn đi học đó là được làm thành viên của một gia đình tin kính và có một gia đình tin kính của riêng mình một ngày nào đó.
Hiểu biết Đấng Christ dẫn chúng ta đến hiểu biết về tầm quan trọng của gia đình. Quá nhiều Cơ Đốc nhân ngày nay hi sinh gia đình để tăng trưởng sự nghiệp, mục vụ, tài sản hay vui chơi. Đức Chúa Trời rất xem trọng gia đình. Khi Ngài ban các lời hứa trong thời Cựu Ước, chúng luôn ở trong ngữ cảnh ban phước hoặc kêu gọi không chỉ cho một người, mà là cả gia đình.
Biết những thói quen của một gia đình tin kính sẽ cho ta thấy lập trường tâm huyết của một gia đình tìm kiếm sự tôn vinh Chúa. Một gia đình đặt Đấng Christ làm trung tâm thường làm gì? Đây là năm điều họ thường làm hơn người khác.
- Dành thời gian cho nhau
Thời gian chất lượng cho gia đình và tầm quan trọng của nó là không bao giờ thừa. Là một thành viên trong gia đình, bạn có dành thời gian cho mẹ, cha, chồng, vợ, anh em hay con cái? Thời gian bạn dành vào đâu sẽ cho thấy rõ điều bạn xem trọng.
- Sống thành thực
Quá nhiều người chơi trò giả bộ ngay trong nhà mình, hay đôi khi ở nhà thờ, công sở hay nơi công cộng họ cũng khác xa với lúc ở nhà. Đức Chúa Trời kêu gọi chúng ta sống cuộc sống ngay thẳng, nghĩa là chúng ta là cùng một người bất kể chúng ta đi đâu. Châm Ngôn 11:3 nói cho chúng ta, “Sự công bình của người ngay thẳng sẽ giải cứu họ; song kẻ bất trung bị mắc trong sự gian ác của mình.”
- Hiểu và tôn trọng vai trò của nhau.
Ba mẹ, vợ chồng, anh em hay con cái đều có vai trò và quyền hạn do Chúa ban cho. Việc tôn trọng vai trò và quyền lợi đó là làm điều tin kính. Thường trong ham muốn áp đặt vai trò và quyền lợi của mình, chúng ta không nhìn thấy vai trò của người khác. Chúng ta trước hết phải nhìn đến vai trò và quyền lợi của những người khác trong gia đình nữa.
- Tìm cách trưởng thành hơn trong vai trò của mình.
Là một thành viên của gia đình, Chúa kêu gọi bạn làm những điều gì? Có những vai trò đến từ Chúa dành cho tất cả mọi người, nhưng cũng có những mạng lệnh riêng Chúa cho bạn để thực hiện trong gia đình. Đây là lý do tại sao lắng nghe tiếng Chúa rất quan trọng – để chúng ta có thể phục vụ người khác tốt hơn, bắt đầu từ gia đình mình.
- Yêu thương nhau.
Điều răn lớn nhất thứ hai Chúa cho chúng ta là yêu thương nhau. Chúng ta không thể yêu những người xa lạ trong khi hoàn toàn bỏ mặc việc yêu thương những người trong gia đình. Một gia đình có Đấng Christ làm trung tâm yêu thương nhau dù có những tổn thương, sai lầm và thất vọng nơi nhau. Giăng 13:35 nói “Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ ta.”
Dịch: Richard Huynh
Nguồn: ChristianToday.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
EVOLUTION 2.0 PRIZE – Giải thưởng 5 triệu USD cho thuyết tiến hóa – Phần 3: Ai Đã Viết Ra Mã DNA
Tuy nhiên câu hỏi do Giải thưởng Evolution 2.0 đặt ra rất có ích lợi, bởi nó kêu gọi mọi người tập trung vào CÂU HỎI LỚN:
Mã DNA xuất phát từ đâu? Cơ chế vật chất nào “sản xuất” ra mã DNA? Ai viết ra mã DNA? Nhà lập trình nào viết ra chương trình hướng dẫn sự sống?
Câu hỏi lớn nói trên thực ra là câu hỏi vĩ đại của triết học nhận thức, từng dày vò những bộ não giàu suy tư triết học trong hàng trăm năm qua, mà họa sĩ nổi tiếng người Pháp Paul Gauguin đã lấy làm tựa đề cho một bức tranh khổ lớn của ông vẽ vào năm 1897 tại Tahiti, hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Polynésie thuộc Pháp trên Thái Bình Dương: Que sommes-nous? D’où venons-nous? Où allons-nous? (Chúng ta là gì? Chúng ta từ đâu đến? Chúng ta đi về đâu?)
Vậy vấn đề đặt ra là liệu khoa học có thể trả lời được CÂU HỎI LỚN đó không?
Câu trả lời của Lý thuyết Thiết kế Thông minh
Lý thuyết Thiết kế Thông minh (Theory of Intelligent Design) là lý thuyết nghiên cứu những cấu trúc tinh vi phức tạp trong tự nhiên, của tự nhiên và do tự nhiên để chứng minh rằng tồn tại một Nhà Thiết kế Thông minh của Tự nhiên.
Bất chấp sự bác bỏ của các nhà tiến hóa, Lý thuyết Thiết kế Thông minh ngày càng lớn mạnh, và trở thành đối thủ số 1 của thuyết tiến hóa. Các nhà tiến hóa vu cho Lý thuyết Thiết kế Thông minh là một biến thể của Thuyết Sáng Tạo (Creationism). Tuy nhiên, các nhà khoa học theo Lý thuyết Thiết kế Thông minh nói rằng họ hoàn toàn độc lập với Thuyết Sáng tạo, bởi họ không hề nhắc đến Chúa theo tinh thần tôn giáo, họ chỉ chứng minh rằng nếu có một thiết kế phức tạp thì ắt phải có một Trí tuệ Thông minh là chủ thể tạo ra bản thiết kế đó. Dễ thấy điều này là vô cùng đúng đắn và hợp lý: Chúng ta không thể chỉ ra một công trình thiết kế phức tạp nào mà không có nhà thiết kế. Tư tưởng này đã được Thomas Acquinas nêu lên từ thế kỷ 13, như một TIÊN ĐỀ của nhận thức luận:
- “Ở bất kỳ nơi nào tồn tại một bản thiết kế phức tạp ở đó ắt ĐÃ phải có một nhà thiết kế; Tự nhiên rất phức tạp, do đó tự nhiên ắt ĐÃ phải có một nhà thiết kế thông minh” (wherever complex design exists, there must have been a designer; nature is complex; therefore nature must have had an intelligent designer)[1]
Tiên đề nói trên đồng nghĩa với tiên đề sau đây:
Một tập hợp ngẫu nhiên của các phân tử và nguyên tử vật chất vô cơ không bao giờ tạo thành sự sống, bất kể thời gian cho các cơ may kéo dài bao nhiêu.
Fred Hoyle, nhà toán học và thiên văn học người Anh đã tính xác suất cho hiện tượng ngẫu nhiên đó, kết quả P = (1/10)^40000. Ông kết luận: “Số mũ này đủ lớn để chôn vùi Darwin cùng với toàn bộ thuyết tiến hóa”. Ông cũng ví cơ may để cho hiện tượng ngẫu nhiên ấy xảy ra tương tự như cơ may để một trận cuồng phong quét qua một xưởng chế tạo máy bay Boeing và ngẫu nhiên tập hợp các linh kiện thành chiếc máy bay.
Hoặc cũng có thể ví như cơ may để một con khỉ gõ piano ngẫu nhiên thành bản nhạc bất hủ.
Nếu tính xác suất của hiện tượng con khỉ gõ đàn nói trên, chắc chắn kết quả sẽ là một con số x nằm trong khoảng (0 < x < 1). Một người nào đó có thể reo lên, vậy thì hiện tượng đó có thể xảy ra, dù xác suất rất thấp. Tất nhiên người đó phải là một người rất dốt về lý thuyết xác suất.
Tóm lại, sự ngẫu nhiên không thể tạo nên những thiết kế có ý nghĩa. Một thiết kế phức tạp và có ý nghĩa chắc chắn phải là một hành động có chủ ý của một nhà thiết kế có trí tuệ thông minh.
Mã DNA là một thiết kế vô cùng phức tạp, tinh vi, có ý nghĩa trọng đại và quyết định trong việc hướng dẫn hình thành sự sống, vì thế nó ắt phải là tác phẩm của một Nhà Thiết kế Vĩ đại. Nói cách khác: Nguồn mã DNA là Nhà Thiết kế Sự Sống!
Bạn có thể gọi tên Nhà Thiết kế Sự Sống đó là Thượng Đế, Đấng Sáng tạo, Chúa, Bramah, Ông Trời,… đó là sự lựa chọn ngôn ngữ của bạn.
Francis Collins, một trong hai nhà lãnh đạo chủ yếu của Chương trình Giải mã Hệ Gene Người, công bố năm 2000, đã cho ra mắt cuốn sách “The Language of God” (Ngôn ngữ của Chúa), trong đó khẳng định mã DNA là do Chúa viết ra. Nói cách khác, nguồn mã DNA là Chúa!
(Còn nữa)
Nguồn: Viethungpham.com
Baig vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Làm Thế Nào Để Dạy Con Ở Tuổi Thiếu Niên Mặc Lấy Mọi Khí Giới Của Đức Chúa Trời
Nuôi dạy con cái ở tuổi thiếu niên đòi hỏi sự hướng dẫn liên tục và nhiều sự kiên nhẫn. Cha mẹ có con ở tuổi thiếu niên thường khó chịu với sự lựa chọn của con mình khi họ chứng kiến con đi qua những năm tháng với nhiều biến chuyển giữa giai đoạn thơ ấu và trưởng thành. Trong khi mỗi bậc phụ huynh lo lắng về những điều khác nhau tùy thuộc vào tính cách và hoàn cảnh của con họ, thì có một nỗi lo mà tất cả cha mẹ nào có con trong độ tuổi thiếu niên đều gặp phải đó là sợ rằng con mình sẽ bị lôi kéo bởi áp lực của bạn bè xung quanh.
Nói một cách đơn giản, áp lực bạn bè là áp lực mà con người ta cảm thấy từ những người bạn hay những người đồng trang lứa với mình để phải cư xử theo một cách nhất định nào đó. Thanh thiếu niên có thể cảm thấy áp lực khi bạn bè của chúng dùng những gợi ý, thách thức, hay lời lẽ có tính chất làm bẽ mặt để chúng làm hay không làm một việc gì đó. Các em cũng cảm thấy áp lực hơn, khi phải đưa ra những sự lựa chọn mà mọi người khác trong vòng tròn xã hội của chúng đều đang lựa chọn để thực hiện.
Áp lực bạn bè có thể ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh trong đời sống hằng ngày của một thiếu niên, từ chế độ ăn uống, lựa chọn áo quần, và mức độ của các hoạt động thể chất cho đến thái độ đối với trường lớp, các chất gây nghiện và tình dục. Áp lực bạn bè lôi kéo con người ta vào các hoạt động tiêu cực có thể là một thách thức đối với các thanh thiếu niên để chống cự lại bởi vì các em ở độ tuổi này đã đang phải đối diện với tâm lý thay đổi thất thường của bản thân, do hóc-môn và những căng thẳng về trách nhiệm gia tăng.
Kinh Thánh báo trước cho chúng ta về những nguy cơ từ áp lực bạn bè bằng lời cảnh báo rằng “bạn bè xấu làm hư thói nết tốt” (I Cô-rinh-tô 15:33). May mắn thay, Kinh Thánh cũng cho chúng ta biết phải làm gì với những người bạn xấu mà có thể làm hư thói nết tốt bằng việc đưa ra một lộ trình mà chúng ta có thể sử dụng để giúp các thanh thiếu niên của mình vượt qua những cạm bẫy của áp lực bạn bè. Cụ thể, chúng ta nên khuyến khích các con của mình “trang bị” cho bản thân trước áp lực bạn bè bằng cách mặc lấy “mọi khí giới của Đức Chúa Trời” (Ê-phê-sô 6:10-17)
Mọi khí giới của Đức Chúa Trời là gì?
Mọi khí giới của Đức Chúa Trời được hình thành từ “đội quân tiếp viện” thuộc linh mà chúng ta có thể sử dụng để đứng vững trên lập trường của mình và chống lại những cám dỗ tội lỗi (Ê-phê-sô 6:11). Kinh Thánh liệt kê những khí giới đó như sau:
“Vậy, hãy đứng vững, lấy lẽ thật làm dây nịt lưng, mặc lấy giáp bằng sự công bình, dùng sự sẵn sàng của Tin lành bình an mà làm giày dép. Lại phải lấy thêm đức tin làm thuẫn, nhờ đó anh em có thể dập tắt được các tên lửa của kẻ dữ. Cũng hãy lấy sự cứu chuộc làm mão trụ, và cầm gươm của Đức Thánh Linh, là lời Đức Chúa Trời.” (Ê-phê-sô 6:14-17)
Chúng ta có thể khích lệ các thanh thiếu niên của mình “trang bị cho phù hợp” với trận chiến chống lại áp lực từ bạn bè bằng cách dạy chúng về mục đích đằng sau mỗi phần của bộ giáp. Cụ thể là:
1. Dây nịt lưng của lẽ thật:
(Ê-phê-sô 6:14) Là Cơ-đốc nhân, chúng ta biết rằng Lời của Đức Chúa Trời là lẽ thật. Lẽ thật có năng quyền để thánh hóa (Giăng 17:17), ban ân điển (Giăng 1:17), và giải phóng chúng ta (Giăng 8:32). Trong khi các tiêu chuẩn của xã hội đến rồi đi, chúng ta đặt đức tin của mình trên lời hứa rằng “lời Chúa tồn tại đời đời” (1 Phi-e-rơ 1:25).
Sẽ có lúc các con chúng ta lo lắng rằng chúng không theo kịp xu hướng mới nhất hay bắt chước một lựa chọn mà một người bạn đã làm. Trong những lúc bất an như thế này, chúng ta có thể nhắc nhở các con của mình rằng “vì điều người ta đề cao lại là điều ghê tởm trước mặt Đức Chúa Trời” (Luca 16:15). Chúng ta có thể nói với các con rằng thay vì làm việc để giành lấy những lời ca ngợi thoáng qua của số đông, chúng có thể chọn cách nắm lấy các bài học của Kinh Thánh và tích trữ của cải đời đời cho mình trên thiên đàng (Ma-thi-ơ 6:19-20).
2. Áo giáp của sự công bình
(Ê-phê-sô 6:14). Nếu con bạn có ý nghĩ tiêu cực với từ “công bình”, có thể là vì cô bé đang nhầm lẫn từ đó với từ “tự xưng công bình”. Từ “công bình” mang ý nghĩa lòng tốt, chính trực, đứng đắn, công bằng — tất cả những trạng thái mà có thể dẫn dắt các thanh thiếu niên thoát khỏi tội lỗi và hướng đến một đời sống hạnh phúc. Ngược lại, từ “tự xưng công bình” có nghĩa là hành vi tự cao tự đại và đạo đức giả — mà các bạn tuổi thiếu niên nên biết sẽ dẫn đến sự khốn khổ và cô đơn.
Khi được giải thích theo cách này, tầm quan trọng của việc sống một đời sống công bình ngay thẳng trở nên rõ ràng. Các con của chúng ta có thể sống ngay thẳng bằng cách sắp xếp mọi hành động của chúng theo như sự chỉ dẫn của Chúa trong Kinh Thánh, đặc biệt là Nguyên Tắc vàng “bất cứ điều gì các con muốn người ta làm cho mình, hãy làm điều đó cho họ” (Ma-thi-ơ 7:12).
3. Tin Lành Bình An
(Ê-phê-sô 6:15). Kinh Thánh bảo chúng ta phải mang vừa hay bao bọc chân mình trong Tin Lành bình an. Khi chúng ta thúc đẩy các con của mình bao bọc chân của chúng với Tin Lành bình an, chúng ta đang khích lệ chúng để lời Chúa là ngọn đèn cho chân chúng và ánh sáng soi đường của chúng. (Thi-thiên 119:105). Chúng ta có thể giúp các con của mình bước đi trong sự bình an bằng cách dạy dỗ chúng, qua việc để Chúa làm trung tâm của những lời nói và hành động, làm thế nào để tương giao tốt với những người xung quanh và làm thế nào để giải quyết những bất hòa một cách điềm tĩnh và hợp lẽ.
4. Thuẫn Đức Tin
(Ê-phê-sô 6:16) Khi chúng ta hình dung một chiến binh đang cầm một cái thuẫn trong chiến trận, chúng ta hình dung người chiến binh đang chống đỡ trước những cuộc tấn công của kẻ thù. Cái thuẫn là để che chắn cơ thể.
Tương tự như vậy, khi chúng ta khích lệ các con mình cầm lấy thuẫn đức tin, chúng ta đang thuyết phục chúng bảo vệ tâm linh của mình bằng cách giữ vững đức tin khi con người và hoàn cảnh cám dỗ chúng làm điều sai trái. Các con sẽ hiểu được rằng, chừng nào chúng còn giữ vững đức tin của mình như giữ một cái thuẫn trong suốt những trận chiến thuộc linh trong cuộc đời, chúng sẽ có thể dập tắt những nghi ngờ và sợ hãi, còn không những thứ đó sẽ đánh thủng niềm tin của chúng.
5. Mão Trụ Của Sự Cứu Chuộc
(Ê-phê-sô 6:17) Đối với thế hệ thanh thiếu niên ngày nay, thì việc nhìn thấy người ta đội mũ bảo hiểm là rất bình thường, dù những người đó đang đi xe đạp, chơi thể thao hay làm việc với những vật nặng phía trên đầu. Con cái chúng ta biết rằng mũ bảo hiểm cứu được tính mạng con người bằng cách bảo vệ đầu khỏi những chấn thương chí mạng.
Cha mẹ có thể dùng hình ảnh tương tự đó để dạy cho trẻ vị thành niên tầm quan trọng của việc mang lấy mão trụ cứu chuộc để bảo vệ tâm trí non trẻ khỏi việc tin vào những suy nghĩ có thể dẫn đến sự chết thuộc linh.
Trong suốt cuộc đời của mình, con cái chúng ta sẽ phải chịu nhiều khoảnh khắc của sự thất vọng mà sẽ thử thách đức tin của chúng. Con chúng ta cũng có thể gặp những người bạn xấu, những người mà sẽ cố gắng làm chúng dao động và đánh mất niềm tin của mình. Nếu chúng ta dạy các con cảnh giác và luôn nghĩ về sự cứu rỗi của mình qua Đấng Christ, thì ngay cả ma quỷ là kẻ “như sư tử gầm thét, đang rình rập chung quanh, tìm người để cắn nuốt” cũng không thể thắng được đức tin vững vàng của con cái chúng ta (1 Phi-e-rơ 5:8).
6. Gươm của Đức Thánh Linh
(Ê-phê-sô 6:17) Gươm Thánh Linh là phần cuối cùng trong bộ khí giới của Đức Chúa Trời và cũng là một thứ “vũ khí” mà có thể được sử dụng để tự vệ lẫn tấn công. Kinh Thánh nói với chúng ta rằng gươm của Đức Thánh Linh là Lời của Đức Chúa trời và chúng ta phải học cách sử dụng thành thạo gươm đó trong chiến trận thuộc linh.
Trước khi chúng ta có thể dạy các con mình sử dụng thanh gươm Lời Chúa này, chúng ta phải làm phần của mình là “mài dũa” gươm đó bằng cách làm cho con cái chúng ta quen thuộc với Lời của Chúa. Tóm lại, trách nhiệm của chúng ta là phải “dạy cho trẻ thơ con đường nó phải theo” để “ khi nó trở về già, cũng không lìa khỏi đó” (Châm-ngôn 22:6).
Trang bị cho con cái mình với sự hiểu biết về Lời Chúa cho phép chúng sử dụng gươm của Thánh Linh để tự vệ, đánh gục bất cứ lý lẽ nào mà bạn bè chúng có thể dùng để làm hao mòn đức tin của chúng. Sự hiểu biết lời Chúa cũng cho phép con cái chúng ta sử dụng gươm Thánh Linh này để tấn công, công bố lẽ thật của Kinh Thánh để củng cố và khích lệ các Cơ-đốc nhân khác giữ vững đức tin. (Công-vụ 14:22)
Dịch: Ny Ny
Nguồn: Crosswalk.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Một trong những việc quan trọng nhất của người làm cha làm mẹ là dạy dỗ con cái mình để chúng tồn tại và phát triển trong thế giới mà chúng sẽ phải đối mặt. Chúng ta cố gắng cho các con mình một nền giáo dục vững chắc, xây dựng nhân cách và đạo đức làm việc của chúng, cũng như truyền đạt những giá trị cốt lõi mang lại vinh hiển cho Chúa. Đây là những điều quan trọng nhất mà ta có thể cho con cái mình. Tuy nhiên, để tồn tại trong thế gian này đòi hỏi các con của chúng ta phải có khả năng tự nuôi lấy bản thân mình và chu cấp cho gia đình riêng mà Chúa sẽ ban cho chúng. Như chúng ta đều biết, đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, đặc biệt là trong nền kinh tế hiện nay. Vậy làm thế nào chúng ta chuẩn bị cho các con để bước vào một thị trường việc làm không ổn định? Làm thế nào để bản thân chúng ta có thể thích nghi với những biến động của nền kinh tế hiện tại và chu cấp cho gia đình mình trước vấn nạn khan hiếm việc làm và nghề nghiệp không ổn định?
Đáp án cho những câu hỏi trên có thể làm bạn ngạc nhiên. Cách đây nhiều tháng, trong vai trò phóng viên, tôi đã đưa tin về một hội nghị thượng đỉnh kinh tế địa phương. Sự kiện này được tổ chức bởi Ủy-ban Việc-làm Bắc Carolina, với mục đích tập hợp các nhà lãnh đạo doanh nghiệp và nhà giáo dục của bang lại với nhau để các nhà giáo dục có thể tìm hiểu những kỹ năng mà các nhà tuyển dụng tìm kiếm nhiều nhất ở nhân viên. Đó là một trải nghiệm giúp mở rộng tầm mắt, vừa thúc đẩy tôi thay đổi một số cách mà tôi dạy con tại nhà, vừa khuyến khích tôi thấy rằng có rất nhiều lợi thế mà giáo dục tại nhà mang lại cho những người tìm việc tương lai. Trong bài này, chúng ta sẽ thảo luận một số kỹ năng mà nhà tuyển dụng tìm kiếm và cách tốt nhất chúng ta có thể chuẩn bị con cái mình—và cả bản thân mình—để tồn tại trong khu rừng thị trường việc làm ngày nay.
1. Sẵn sàng học hỏi
Thị trường việc làm đang thay đổi nhanh chóng và chúng ta phải sẵn sàng thay đổi cùng với nó. Trước đây, có khá ít lựa chọn, và tư vấn nghề nghiệp chỉ đơn giản là kết hợp đúng người với đúng công việc. Tuy nhiên, thực tế là chúng ta phải chuẩn bị con cái mình để đáp ứng được những thách thức của những việc làm hoàn toàn mới. Laura Bingham, cựu hiệu trưởng trường Peace College, giải thích: “Thách thức mà chúng ta phải đối mặt trong nền kinh tế biến hóa nhanh chóng này là chúng ta phải giáo dục con cái mình ngay từ bây giờ cho những công việc chưa từng tồn tại.“
Như Sam Houston, Chủ-tịch kiêm Giám-đốc Điều-hành của Trung-tâm Giáo-dục Khoa-học, Toán-học và Công-nghệ Bắc Carolina, nhận xét tại hội nghị “Ngày nay, điều quan trọng là chúng ta phải cung cấp cho sinh viên các chiến lược để đối phó với điều chưa biết.” Nền kinh tế của chúng ta ngày càng phụ thuộc vào các công nghệ mới và thay đổi liên tục có nghĩa là hầu hết mọi người đều phải ở chế độ học tập tại bất kỳ thời điểm nào. Người nào không học để biết cách xử lý những ý tưởng mới và thích nghi với thực tế lao động mới sẽ bị bỏ lại phía sau. Những người sẵn sàng và ham học hỏi sẽ phát triển mạnh. Việc xây dựng trong con bạn khả năng này và lòng ham học hỏi là chìa khóa cho sự thịnh vượng trong tương lai.
2. Tập trung vào giáo dục nâng cao, không chỉ đại học
Trước đây, tấm bằng đại học thường được cho là thứ cần thiết để đạt được thành công về mặt kinh tế. Thật vậy, những người có bằng cử nhân thường kiếm được gấp đôi thu nhập so với những người chỉ có bằng trung học (2.1 triệu đô-la so với 1.2 triệu đô-la, theo báo cáo năm 2002 của Cục Thống-kê Dân-số Hoa Kỳ). Những người tốt nghiệp đại học cũng có nhiều khả năng tìm được những việc làm tốt hơn.
Tuy nhiên, việc tập trung vào các kỹ năng công nghệ và các khóa huấn luyện công việc cụ thể hiện nay từ các chương trình do các trường đại học cộng đồng và các trường đào tạo kỹ thuật cung cấp ngày càng trở nên quan trọng hơn. Bạn có thể chọn tham gia khóa đào tạo này hoặc lên kế hoạch bắt đầu với bằng cao đẳng trong một lĩnh vực cụ thể trước rồi sau đó mới chuyển tiếp sang chương trình đại học mở rộng. Ngay cả bằng cao đẳng cũng có thể giúp tăng thu nhập đáng kể (1.6 triệu đô-la thu nhập trọn đời). Lựa chọn này cũng có hiệu quả kinh tế hơn so với chi phí học đại học và cho phép sinh viên được giáo dục tại nhà dễ dàng hòa nhập với môi trường lớp học trước khi tiếp cận những điều kiện học tập khắc nghiệt hơn để lấy bằng cử nhân.
3. Chuẩn bị một sự nghiệp dự phòng
Một lợi thế khác của việc tìm đến các trường dạy nghề và kỹ thuật địa phương là bạn sẽ được chuẩn bị với nhiều lựa chọn nghề nghiệp hơn nếu kế hoạch ban đầu của bạn không thành công. Như nhiều người đã học được rằng trong thời buổi kinh tế khó khăn như hiện nay, sự nghiệp không phải lúc nào cũng chắc chắn, dù bạn có giỏi đến đâu đi nữa. Càng có nhiều kỹ năng bỏ túi, bạn càng thu hút nhà tuyển dụng và càng có nhiều cơ hội tìm được một chỗ làm dự phòng. Như Rick Davis, một quản lý tại Spirit AeroSystems đã nói đùa trong hội nghị, “Tôi đặt mục tiêu là mình phải pha ít nhất một ly cà phê mỗi ngày để tôi có một kỹ năng làm việc có thể kiếm tiền được.“
4. Phát triển các kỹ năng kinh doanh sớm
Một số Giám-đốc Điều-hành của các tập đoàn lớn có mặt tại hội nghị than vãn về thực tế rằng nhiều người bước vào thị trường việc làm mà biết rất ít hoặc không biết gì về cách thức hoạt động của doanh nghiệp hoặc về chi phí kinh doanh. “Những em bé với quầy nước chanh ở góc đường hay dịch vụ đi làm cỏ mùa hè đâu rồi?” một trong những người khổng lồ trong lĩnh vực kinh doanh này đã than thở. Ngay cả những công việc đơn giản như vậy cũng dạy về giá trị của đồng đô-la và thực tế của chi phí và lợi nhuận. May mắn thay, những sinh viên được giáo dục tại nhà đang ở vị trí thuận lợi để khởi xướng những nỗ lực sáng tạo và thành công đó. Tính linh hoạt của việc giáo dục tại nhà giúp thanh thiếu niên dễ kiếm việc làm hơn so với các em học ở trường truyền thống. Hơn nữa, theo Khảo-sát Độc Giả 2007 của Tạp-chí TOS, trong gần 5000 gia đình giáo dục con cái tại nhà, thì có khoảng 15% trẻ em được giáo dục tại nhà hoặc tham gia vào công việc kinh doanh của gia đình hoặc sở hữu công việc kinh doanh riêng của mình.
5. Cải thiện kỹ năng giao tiếp của bạn
Nếu bạn khảo sát mục việc làm của hầu hết các tờ báo hoặc trang mạng, bạn sẽ sớm nhận ra tầm quan trọng của kỹ năng giao tiếp tốt. Kỹ năng nói và viết là bắt buộc cho những người làm việc với công chúng hoặc những người đang tìm kiếm vị trí quản lý cao hơn. Thật không may, những người có khả năng này ngày càng trở nên hiếm hoi. Như Dan Gerlach, Chủ-tịch của Golden LEAF Foundation, đã phàn nàn “Thế hệ này biết cách đăng một dòng trạng thái lên mạng xã hội, nhưng không biết cách nhìn vào mắt bạn và nói chuyện với bạn.“
May mắn thay, các sinh viên được giáo dục tại nhà thường đạtc điểm cao hơn nhiều trong những lĩnh vực này so với những sinh viên khác, chủ yếu là vì các em có xu hướng giao tiếp ở cấp độ người lớn sớm hơn và thường xuyên hơn. Cha mẹ có thể nâng cao kỹ năng giao tiếp của con mình bằng các khóa học nghệ thuật ngôn ngữ và hùng biện cũng như đưa các yếu tố từ vựng và văn bản khó hơn vào chương trình giảng dạy. Những nỗ lực này sẽ đem lại nhiều ích lợi về lâu về dài.
6. Phát triển kỹ năng tư duy lô-gic và phản biện
Một chủ đề phổ biến khác của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp là mong muốn thuê được những nhân viên thể hiện khả năng tư duy lô-gic và phản biện tốt. Họ cho biết một nhân viên bình thường có thể biết cách nhấn nút nhưng lại gặp khó khăn trong việc nhận biết khi nào có vấn đề và làm sao để khắc phụ sự cố. Ngoài ra, Tiến-sĩ Bill Carver, hiệu trưởng Đại-học Cộng-đồng Nash, cũng chỉ ra, “Rất nhiều sinh viên đã quá quen với các câu hỏi trắc nghiệm, đến nỗi họ gặp khó khăn trong việc kết nối những sự việc trong môi trường làm việc thực tế.“
Những kỹ năng này quan trọng đến mức nhiều bài kiểm tra tuyển dụng giờ đây bắt đầu kiểm tra những yếu tố này để giúp xác định mức độ phù hợp cho một vị trí công việc. May mắn thay, hiện có rất nhiều sách truyền thống và sách dành riêng cho giáo dục tại nhà về các vấn đề như tư duy lô-gic, tư duy phản biện, và giải quyết vấn đề. Một số trò chơi cũng giúp phát triển các kỹ năng trong lĩnh vực này. Khi mua quà cho các con, bạn nên tìm những cuốn sách và trò chơi phát triển những kỹ năng này.
7. Mài dũa kỹ năng máy tính
Hãy đối diện với thực tế: Chúng ta giờ đang sống trong thế kỷ 21 và máy tính sẽ còn hiện diện. Hầu hết người trẻ ngày nay đã lớn lên trong một thế giới định hướng về máy tính và do đó có lợi thế hơn so với những người tìm việc lớn tuổi, những người có thể vẫn còn một chút e ngại về công nghệ.
Hầu hết các việc làm ngày nay đều yêu cầu một số kiến thức cơ bản về máy tính, vậy nên hãy lập kế hoạch đầu tư vào lĩnh vực tin học văn phòng (chẳng hạn như Microsoft Office) thường được sử dụng trong thế giới kinh doanh. Các khóa học như đánh máy và kỹ năng máy tính căn bản có sẵn trong phần mềm máy tính đến các khóa học trực tuyến hoặc trực tiếp ở các trung tâm đào tạo cộng đồng tại địa phương. Tất nhiên, việc thực hành trong thực tế là cách học hiệu quả nhất, như hầu hết các gia đình giáo dục con tại nhà đã nhận ra. Theo Khảo-sát Độc Giả 2007 của Tạp-chí TOS, hầu hết các gia đình giáo dục con tại nhà đều có máy tính.
Người xin việc cũng cần có kỹ năng máy tính tốt. Ngày nay, hầu hết các nhà tuyển dụng thường yêu cầu các ứng viên phải nộp đơn trực tuyến trước, thông qua Internet hoặc thông qua mạng máy tính nội bộ của công ty. Nhiều công ty cũng sử dụng các bài kiểm tra và câu hỏi khảo sát trên máy tính như một phần của quy trình tuyển dụng trực tuyến, do đó, ứng viên nào có kinh nghiệm với hình thức kiểm tra này sẽ có lợi thế hơn. Nhiều bài kiểm tra tập trung vào khả năng giao tiếp, kỹ năng tư duy phản biện, và mối quan hệ xã hội.
8. Rèn luyện kỹ năng xã hội
Nhiều công việc ngày nay đòi hỏi kỹ năng phục vụ khách hàng tốt, và do đó những phẩm chất như phép lịch sự thông thường và khả năng biết tự kềm chế đang được đòi hỏi khá cao. Sinh viên được giáo dục tại nhà thường vượt trội trong những lĩnh vực này vì các em có xu hướng dễ thích nghi và thành công trong quá trình tương tác với nhiều nhóm tuổi khác nhau và thoải mái hơn trong các tình huống có sự tương tác của người lớn.
Cách đây nhiều năm, khi tôi đang trên đường về từ một hội nghị giáo dục tại nhà, tôi gặp một doanh nhân trên máy bay. Khi chúng tôi nói chuyện, tôi phát hiện ra anh ấy là CEO của một tập đoàn sở hữu một chuỗi các nhà dưỡng lão. Mặc dù anh ấy không dạy con tại nhà, nhưng anh nói với tôi rằng anh và nhân viên của mình đã tích cực tuyển dụng các thanh thiếu niên được giáo dục tại nhà vào làm việc cho họ vì các em đó có khả năng tương tác tốt với người lớn tuổi và có lịch trình linh hoạt. Rõ ràng, anh đã thấy tận mắt những ích lợi mà việc giáo dục tại nhà mang lại cho nhân viên.
Tại hội nghị kinh tế mà tôi tham dự, nhiều nhà tuyển dụng tiềm năng cũng đề cập đến các kỹ năng xã hội như một điểm cộng rất lớn. Một số nhà tuyển dụng tiềm năng hiện nay thường yêu cầu bạn gửi cho họ đường dẫn tới trang mạng cá nhân hoặc tài khoản mạng xã hội như Facebook. Tuy vậy, các liên kết này có thể là con dao hai lưỡi: việc sử dụng chúng cho thấy bạn là người giỏi máy tính và có kỹ năng mạng xã hội tốt; tuy vậy, chúng cũng tiết lộ rất nhiều thông tin về đời sống và tính cách của bạn. Hãy đảm bảo rằng những trang này không chứa những thông tin có thể gây tổn hại đến danh tiếng của bạn hay thể hiện thái độ tiêu cực đối với nhà cầm quyền—đây là lời khuyên tốt cho mọi trường hợp.
9. Nâng cao hồ sơ xin việc của bạn
Ngay cả trước khi những người trẻ tuổi bắt đầu tìm kiếm việc làm, họ có thể đã bắt đầu tìm cách cải thiện hồ sơ xin việc của mình. Nhiều nhà tuyển dụng hiện nay muốn hồ sơ xin việc tập trung vào các kỹ năng có được, thay vì chỉ là kinh nghiệm. Ghi lại những hoạt động tình nguyện của bạn, những công việc căn bản đã làm, đồng thời ghi lại các kỹ năng mà bạn đã học được. Ví dụ, bạn có thể nâng cao kỹ năng nghe nhìn, máy tính, hay chăm trẻ bằng việc tham gia tình nguyện tại hội thánh của mình. Bạn cũng có thể nâng cao kỹ năng xã hội bằng cách làm tình nguyện viên tại bệnh viện hoặc nhà dưỡng lão. Hoặc bạn có thể học các kỹ năng tổ chức bằng cách giúp tổ chức sự kiện cho nhóm giáo dục tại nhà của mình.
Danh sách các lớp học mà bạn đã tham gia tại trường đại học cộng đồng cũng có thể nâng cao hồ sơ xin việc của bạn. Ngay cả những khóa học như sơ cấp cứu, sửa xe, may vá, hay trông trẻ cũng bổ sung vào bộ kỹ năng của bạn và thể hiện ham muốn học hỏi. Tất nhiên, các lớp họ về máy tính và đánh máy là đặc biệt giá trị.
Như bạn có thể thấy, thành công trong thị trường việc làm ngày nay đòi hỏi nhiều hơn chỉ là những điều cơ bản về giáo dục và một đạo đức làm việc tốt. Việc làm càng hiếm hoi, nhà tuyển dụng càng trở nên kén chọn. Tuy vậy, đây lại là tin tốt lành cho các gia đình giáo dục con tại nhà, vì nhiều kỹ năng và thái độ đang được đánh giá rất cao lại là những kỹ năng và thái độ mà các gia đình giáo dục con tại nhà tập trung vào. Những người được giáo dục tại nhà không chỉ có tiềm năng phát triển mạnh trong nền kinh tế ngày nay mà còn trở thành những nhà lãnh đạo kinh tế trong tương lai. Tuy vậy, điều này vẫn phụ thuộc vào chúng ta—những bậc cha mẹ—trong việc trang bị cho các con để đối mặt với những thử thách phía trước.
Dịch: Richard Huynh
Nguồn: creation.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Ba Mẹ Ơi, Con Xin Hỏi – Phần 80: Tại Sao Con Cần Phải Nói Lời Xin Lỗi Với Mọi Người?
Điều đầu tiên con cần biết đó là Chúa yêu con rất nhiều. Ngài biết mọi thời điểm con buồn hay thất vọng. Ngài thấy nước mắt của con. Ngài cảm nhận được nỗi buồn của con khi ai đó đối xử sai với con. Ngài quan tâm đến cảm xúc của con. Nên Ngài muốn người đó phải hối hận vì đã làm tổn thương con. Ngài muốn họ xin lỗi con. Con hiểu không? Tất nhiên rồi! “vì Đức Chúa Trời là sự yêu thương” (1 Giăng 4:8) và Chúa yêu con.
Nhưng nhớ rằng: Chúa yêu cả anh chị em con nhiều như Ngài yêu con. Chúa yêu bạn bè và hàng xóm con. Ngài cũng quan tâm đến cảm nhận của họ nữa. Và Ngài muốn con yêu họ và quan tâm đến cảm nhận của họ. Đó là lý do tại sao một trong những mạng lệnh lớn nhất là: “Ngươi hãy yêu kẻ lân cận như mình” (Ma-thi-ơ 22:39). Con để ý khi người khác tổn thương con đúng không? Con để ý khi ai đó tổn thương anh chị em con đúng không? Vậy con cũng nên để ý nếu con làm tổn thương họ.
Sứ đồ Phi-e-rơ nói về điều này rất hay. Ông nói thế này, “Rốt lại, hết thảy anh em phải đồng lòng đầy thương xót và tình yêu anh em, có lòng nhân từ và đức khiêm nhường” (1 Phi-e-rơ 3:8). Con nên cảm thông với người khác. Con nên có một tấm lòng quan tâm, nhân từ với họ.
Nhưng nếu con vẫn còn tức giận họ, thì thật khó để con nói lời xin lỗi. Khi cha mẹ bảo con xin lỗi ai đó, con có thể không thích làm vậy. Ngay cả nếu con biết con đã làm sai với người đó. Xin lỗi sẽ không có ý nghĩa gì nếu con vẫn muốn tổn thương người đó. Họ sẽ biết con không hối lỗi. Họ biết con vẫn muốn làm tổn thương họ. Trước khi con nói lời xin lỗi, con cần hối lỗi đã. Con cần phải biết mình đã làm sai và cảm thấy rất tệ về điều đó.
Nhưng nhiều lúc, sự kiêu ngạo sẽ ngăn cản con. Con biết con đã làm sai nhưng con không muốn nói “Tôi xin lỗi.” Thường thì sự kiêu ngạo ngăn cản người ta xin lỗi. Đấy là khi con nên nhớ điều Phi-e-rơ nói: “có lòng nhân từ và đức khiêm nhường” (1 Phi-e-rơ 3:8). Nếu con kiêu ngạo, con sẽ không bao giờ xin lỗi. Tốt hơn là con nên khiêm nhường.
Nuốt trôi sự kiêu ngạo và xin lỗi người mà con tổn thương. Con sẽ bắt đầu cảm thấy tốt hơn rất nhanh. Và người khác cũng vậy. Và sẽ hiệu quả hơn nếu con ôm họ.
*****
Tại sao Chúa muốn con quan tâm tới cảm xúc của người khác?
Điều gì ngăn trở con hối lỗi?
Nguồn: Viện Đào Tạo Môn Đồ Việt Nam
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Giê-ru-sa-lem – Aliyah & Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh
Vào tháng 8 năm 1997, Hội nghị Do Thái Thế giới tại Basel, Thụy Sĩ kỷ niệm một trăm năm Hội Nghị Phục quốc đầu tiên được tổ chức ở đó dưới sự lãnh đạo của Theodor Herzl. Chủ nghĩa Phục quốc (Zionism) đã và đang là, phong trào Do Thái có một mục tiêu có thể được gón gọn trong từ “Quê Hương” – Quê hương của Y-sơ-ra-ên – Quê hương của Zion. Sự tản lạc kéo dài hàng thế kỷ của người Do Thái trên khắp thế giới phải kết thúc. Cần có một nhà nước Do Thái độc lập. Nhưng vấn đề là ở đâu? Sẽ khó có một câu trả lời rõ ràng ngay tức thì. Một số người thậm chí còn gợi ý rằng một vùng đất ở một nơi nào đó ở châu Phi, có thể là Uganda, có thể được lấy làm quê hương cho người Do Thái – hoặc có thể ở Birobidzjan ở Viễn Đông Nga, như Stalin đề nghị!
Khi Theodor Herzl bắt đầu hành trình thiết lập quê hương cho người dân Do Thái, ông đã tìm kiếm sự hỗ trợ của các cường quốc để giúp đạt được mục tiêu của mình. Năm 1903, Herzl tìm đến Vương quốc Anh, và gặp gỡ các quan chức tư pháp cấp cao bao gồm Joseph Chamberlain, thư ký thuộc địa Anh. Về nguyên tắc, họ đã đồng ý về việc định cư của người Do Thái ở Đông Phi.
Tại Hội nghị Phục quốc lần thứ sáu ở Basel vào ngày 26 tháng 8 năm 1903, Herzl đề xuất “Chương trình Uganda của Anh” để cung cấp một nơi ẩn náu tạm thời cho những người Do Thái ở Nga đang gặp nguy hiểm trước mắt. Bằng một cuộc bỏ phiếu với 295/473 phiếu thuận, đại hội đi đến quyết định cử một đoàn thám hiểm (“ủy ban điều tra”) để kiểm tra vùng lãnh thổ được đề xuất. Ba ngày sau, chính phủ Anh công bố một tài liệu chính thức phân bổ một “lãnh thổ Do Thái” ở Đông Phi, “với các điều kiện cho phép người dân giữ theo phong tục quốc gia của họ.” Mặc dù Herzl nói rõ rằng chương trình này sẽ không ảnh hưởng đến mục tiêu cuối cùng của Chủ nghĩa Phục quốc là người Do Thái ở Vùng đất Y-sơ-ra-ên, đề xuất này làm dậy sóng trong Hội nghị, và gần như dẫn đến sự chia rẽ trong phong trào Phục quốc. Chương trình Uganda cuối cùng đã bị từ chối bởi phong trào Phục quốc tại Hội nghị Phục quốc lần thứ bảy vào năm 1905. Nhưng Chúa có kế hoạch khác. Tất nhiên, quê hương đó phải là Y-sơ-ra-ên. Và những người Do Thái bắt đầu chạy đến, từ các cuộc chiến tranh ở Nga vào cuối thế kỷ XIX. Lúc đầu, họ chủ yếu đến từ các vùng đất ở trung tâm châu Âu – từ Ba Lan và Balkan. Năm 1897, Herzl đã báo trước rằng trong vòng năm mươi năm nữa sẽ có một nhà nước Do Thái của Y-sơ-ra-ên. Đúng năm mươi năm sau, lời tiên tri của ông đã trở thành sự thật. Năm 1947, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã quyết định rằng người Do Thái cần có quê hương của riêng họ ở Palestine, như tên gọi lúc bấy giờ.
(Còn tiếp…)
Giáo sĩ Willem J. J. Glashouwer
Chủ tịch Cơ Đốc Nhân vì Israel Quốc tế
Chủ tịch danh dự Liên Minh Châu Âu vì Israel
Biên Dịch Cơ Đốc Nhân Vì Israel Quốc Tế
“Hãy vào nhà…đóng cửa lại”, Ê-li-sê nói với người góa phụ đang hoảng sợ tột độ. Một chủ nợ đã đe dọa bắt hai con trai nàng làm nô lệ vì nàng không còn gì để trả cho ông ta. Nếu người nào đó đang rất cần một phép màu, thì đó chính là người phụ nữ tội nghiệp này.
Ta phải làm gì cho ngươi?
“Kẻ tôi tớ ông, là chồng tôi, đã qua đời,” nàng giải thích cho tiên tri Ê-li-sê trong chương 4 sách 2 Các-vua. “…và ông biết rằng kẻ tôi tớ ông kính sợ Đức Giê-hô-va. Vả, chủ nợ người đến toan bắt hai đứa con tôi làm tôi mọi.”
“Ta phải làm gì cho ngươi?” Ê-li-sê hỏi nàng. “Hãy nói cho ta biết; ngươi có vật gì ở nhà?”
Điều này khiến tôi nhớ đến một vài chỗ khác trong Kinh Thánh, nơi Chúa hỏi, “Ngươi muốn Ta làm chi cho ngươi?” Chẳng hạn như người mù ở thành Giê-ri-cô (Mác 10:51) đã được Chúa hỏi câu mà dường như không cần thiết này mặc dù vấn đề của người mù là quá rõ ràng. Một đêm nọ, Sa-lô-môn cũng được hỏi câu tương tự như vậy (2 Sử-ký 1:7; 1 Các-vua 3:5), và Ê-li-sê sau đó hỏi người nữ Su-nem, “Ta phải làm gì cho ngươi?” (2 Các-vua 4:13-14) Những câu hỏi kiểu này thực sự xuất hiện khá nhiều trong Kinh Thánh; đôi khi nó có vẻ là một câu hỏi khá thừa, và những câu trả lời có thể khác nhau. Sự việc xảy ra với người góa phụ nghèo của chúng ta cũng thuộc vào loại rõ mồn một. Tuy nhiên, Ê-li-sê vẫn hỏi câu đó.
Tiếp theo, Ê-li-sê muốn biết trong nhà nàng còn gì không. Thực tế là không có gì. Nhu cầu của nàng là rất rõ ràng: nàng cần một phép lạ của sự chu cấp. Tuy nhiên, thay vì làm cho tiền từ trên trời rơi xuống (điều mà nếu Chúa muốn Ngài hoàn toàn có thể làm được), Ê-li-sê lại yêu cầu người phụ nữ này hợp tác với Chúa theo những cách rất thực tế.
Cho dù đó là Môi-se với cây gậy của mình hay cậu bé với bữa trưa gồm năm ổ bánh và hai con cá, bằng cách nào đó, Đức Chúa Trời thích bắt đầu với những điều nhỏ nhặt mà chúng ta có trong tay; cả về thuộc thể lẫn thuộc linh.
Ngài muốn chúng ta tham gia vào việc tạo ra phép lạ, cùng đồng công với Ngài và đóng góp vào quá trình này. Điều này đòi hỏi một đức tin lớn để hy sinh thứ duy nhất mà nàng còn lại trong nhà – một hũ dầu – cùng với một số hành động tay chân khác (chưa kể đến sự hạ mình) để đi mượn những chiếc bình không từ những người hàng xóm.
Hãy đóng cửa lại
“Hãy đi ra ngoài mượn những bình không của các kẻ láng giềng ngươi, chớ mượn ít. Khi ngươi trở về, hãy vào nhà với các con ngươi, đóng cửa lại, rồi hãy đổ dầu vào các bình đó; hễ bình nào đầy thì để nó riêng ra.” (2 Các-vua 4:3-4)
Có một câu nói trong hướng dẫn của Ê-li-sê có vẻ hơi lạ. “…hãy vào nhà với các con ngươi, đóng cửa lại” Tại sao phải làm như vậy?
Một mặt, việc mượn tất cả những chiếc bình của hàng xóm chắc chắn sẽ khiến nhiều người chú ý và làm cho phép lạ này trở nên công khai, nhưng mặt khác, Ê-li-sê xác định rằng nàng phải vào nhà với các con mình và đóng cửa lại. Điều tương tự xảy ra trong phép lạ tiếp theo của Ê-li-sê cũng trong chương này – khi Ê-li-sê khiến đứa con của người nữ Su-nem sống lại.
“Khi Ê-li-sê vào nhà, thấy đứa trẻ đã chết, nằm sải trên giường. Ê-li-sê vào trong phòng, đóng cửa lại, có đứa trẻ và mình ở trong, rồi cầu nguyện cùng Đức Giê-hô-va.” (2 Các-vua 4:32-33)
Câu chuyện này khiến tôi liên tưởng đến hai sự kiện xảy ra với Chúa Giê-xu: Lần đầu tiên là khi Ngài khiến cô con gái nhỏ của Giai-ru sống lại từ cõi chết trong Mác 5, Ngài đã đuổi mọi người ra ngoài hết chỉ trừ những môn đồ thân cận nhất của Ngài và cha mẹ của cô bé. Lần thứ hai là trong Ma-thi-ơ 6:6, khi Ngài cảnh báo:
“Song khi ngươi cầu nguyện, hãy vào phòng riêng, đóng cửa lại, rồi cầu nguyện Cha ngươi, ở nơi kín nhiệm đó; và Cha ngươi, là Đấng thấy trong chỗ kín nhiệm, sẽ thưởng cho ngươi.”
Tôi nghĩ rằng ý tưởng đóng cửa lại để được ở một mình với Chúa, và không bận tâm gì đến thế giới bên ngoài kia, chính là tuyên bố rằng bạn sẵn sàng làm việc một cách nghiêm túc với Chúa. Đó là vấn đề riêng tư giữa bạn và Ngài.
Cuối cùng thì phép lạ về bình dầu đã được biết đến rộng rãi (và lan truyền cho đến ngày nay!) Nhưng bản thân khoảnh khắc của phép lạ, khi đức tin và quyền năng của Đức Chúa Trời gặp nhau, chỉ là chuyện của một gia đình.
“Nàng liền đi khỏi người, vào nhà với các con trai mình, đóng cửa lại.” (2 Các-vua 4:5)
Phân đoạn này trong 2 Các-vua 4, về hai con trai của người góa phụ và đứa con đã chết của người nữ Su-nem, thường được đọc trong các nhà hội cùng với một phân đoạn trong Kinh Torah, nơi Áp-ra-ham được bảo trước tiên hãy tiễn Ích-ma-ên vào trong hoang mạc, sau đó hiến tế Y-sác. Ông cũng suýt mất hai con trai của mình. Câu chuyện về hai người con trai trong cơn hiểm nguy và cuộc giải cứu thần kỳ được liên kết với nhau. Tất nhiên, đối với chúng ta, những người yêu mến Đấng Mê-si, việc Áp-ra-ham sẵn sàng hy sinh con trai duy nhất của mình cũng tương đồng với sự hy sinh của Đức Chúa Trời khi Ngài sai Chúa Giê-xu đến để chịu chết. Và thật thú vị làm sao khi chính sau cánh cửa đóng kín của ngôi mộ đã được niêm phong đó, Đức Chúa Trời đã phục sinh Con Ngài? Sau đó, Ngài bước ra khỏi mộ vào ngày thứ ba và phép lạ này đã được lan truyền rộng rãi nhất có thể.
Khi cánh cửa đóng lại và chúng ta ở một mình với những suy nghĩ, nhu cầu của mình và Chúa của chúng ta, chúng ta thấy mình đang ở trạng thái nào? Chúng ta đã sẵn sàng thực sự mở lòng đón nhận Ngài bằng đức tin chưa?
Đôi khi thật dễ để khơi dậy đức tin khi ở trong một đám đông có cùng niềm tin, nhưng khi chúng ta phải đóng cánh cửa đó lại phía sau và nói chuyện với Chúa một mình, thì đức tin của chúng ta sẽ trở nên rõ ràng và sống động hơn rất nhiều. Rồi khi Đức Chúa Trời đã ban phép lạ cho chúng ta, thì việc nói cho cả thế giới biết về phép lạ đó là điều đúng đắn và nên làm nhất đúng không nào!
Đức Chúa Trời của sự dư dật
Người góa phụ và các con trai nàng phải đi mượn những chiếc bình – không phải chỉ một vài cái mà mượn nhiều nhất có thể – và họ mang về, đổ đầy chúng rồi bán dầu trong đó. Ba mẹ con cảm thấy thế nào khi họ đổ – và đổ – và đổ! Dầu chỉ dừng lại sau khi đổ đầy chiếc bình cuối cùng. Có vẻ như dầu sẽ tiếp tục tuôn ra không ngừng nếu họ còn bình trống? Giới hạn duy nhất đối với phép lạ này là số lượng bình mà họ đã mượn được. Bạn có thể tưởng tượng cuộc trò chuyện có thể diễn ra như thế nào khi họ đi trả lại những chiếc bình cho hàng xóm không?!
Ê-li-sê nói với nàng, “Hãy đem bán dầu mà trả nợ của ngươi; đoạn, ngươi và các con trai ngươi sẽ lấy dầu còn lại mà nuôi mình.”
Từ “phần còn lại” trong tiếng Do Thái cũng có thể được sử dụng để chỉ phần thừa. Phần dư ra. Phần vượt quá mong đợi. Đức Chúa Trời đã chu cấp cách dư dật, và phần dầu thừa lại thôi cũng đủ cho nhu cầu của nàng cùng các con. Giống như những ổ bánh và những con cá – phần bánh thừa lại thâu được đầy mười hai giỏ. Khi Chúa nói, “Không ít đâu”, Ngài thật sự có ý đó. Đừng tiếc của, đó là hướng dẫn – đừng giới hạn phép lạ của Chúa. Hãy mượn thật nhiều bình. Đức Chúa Trời không phải là người keo kiệt, nhưng Ngài là Đức Chúa Trời của sự dư dật, của những điều vượt quá sự mong đợi. Họ có thể không phát tài sau phép lạ này, nhưng họ đã được cứu khỏi một thảm họa nghiêm trọng. Họ có thể sống tự do (khỏi nợ nần) và cuộc sống sẽ dễ thở hơn trước.
Chúa thích giúp đỡ chúng ta – Ngài luôn hiện diện giúp đỡ trong lúc khó khăn. Bạn có đang cần một phép lạ không? Bạn sẽ trả lời thế nào nếu Chúa hỏi bạn ngay bây giờ, “Con muốn Ta làm gì cho con?” Hãy suy ngẫm những lẽ thật về Đức Chúa Trời thành tín, hào phóng, hay làm phép lạ trong câu chuyện này và nói cho Ngài biết điều bạn cần giúp đỡ ngay hôm nay.
Dịch: Eunice Tu
Nguồn: oneforisrael.org
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
EVOLUTION 2.0 PRIZE – Giải thưởng 5 triệu USD cho thuyết tiến hóa – Phần 2: Thách Thức Của Người Thắng Giải
Nếu Lý thuyết Big Bang đã đưa vật lý học tới điểm tận cùng của vũ trụ, thách thức các nhà khoa học trả lời câu hỏi về nguồn gốc vũ trụ, thì việc khám phá và giải mã DNA trong hơn nửa thế kỷ qua cũng đưa sinh học tới điểm tận cùng của sự sống, thách thức các nhà sinh học trả lời những câu hỏi về bản chất cốt lõi của sự sống.
Thật vậy, những công trình khám phá về DNA đã đưa khoa học tới hàng loạt câu hỏi thách thức xung quanh những khả năng kỳ lạ của sự sống ở đáy sâu tận cùng của nó ─ khả năng phi thường của những cỗ máy bé tí xíu nhưng tinh vi gấp triệu lần những cỗ máy do loài người chế tạo ra. Đó là tế bào và những thành phần bên trong tế bào. Chúng không chỉ hoạt động theo những cơ chế động lực học (vật lý + sinh hóa) mà còn theo những cơ chế thông tin và thậm chí cơ chế “có ý thức”, vượt xa trình độ hiểu biết của khoa học hiện nay. Điều này làm cho bất kỳ một người có tư duy sâu sắc nào cũng phải kinh ngạc, buộc con người phải khiêm tốn học hỏi và suy ngẫm tới mọi nguyên nhân có thể có. Cụ thể:
- Làm thế nào mà mỗi tế bào có thể tự tái tạo ra bản thân nó từ những hướng dẫn kỹ thuật số lưu trữ trong DNA ─ một phân tử sinh học có các đặc trưng giống y như các thiết bị kỹ thuật số hiện đại: Các lớp mã hóa kỹ thuật số, giải mã và chứa đựng dữ liệu; phát hiện lỗi, sửa lỗi và sửa chữa lỗi…
- Làm thế nào để sinh vật biết cách sửa chữa và chữa lành cho bản thân nó, biết cách thích nghi với mọi tình huống, và biết lựa chọn?
- Làm thế nào mà tế bào biết cách tự thiết kế lại, đúng lúc, theo từng giờ hay thậm chí từng phút. Lý do bạn phải uống hết liều kháng sinh của bạn là vì vi khuẩn có khả năng biến đổi rất nhanh để kháng thuốc. Cái gì làm cho vi khuẩn thích ứng nhanh như thế?
- Làm thế nào mà các tế bào “biết” cách tiến hóa? Không có phần mềm nào của con người có thể làm được điều đó. Cho phần mềm của con người hàng triệu cơ hội và hàng tỷ năm nó cũng chẳng thể tiến hóa được thành bất cứ cái gì khác. Nhưng sự sống thì không ngừng biến đổi để thích ứng với những hoàn cảnh mới. Làm thế nào mà sự sống có thể làm điều đó? Cái mà tế bào biết nhưng chúng ta không biết là cái gì?
- Còn ý thức thì sao? Trong xã hội loài người chúng ta thấy chỉ những sinh mệnh có ý thức mới có thể tạo ra mã và sửa đổi mã. Vậy ý thức đến từ đâu? Các tế bào có tự nhận thức được chính nó không?
- Theo Lý thuyết Phi Tạo sinh (Abiogenesis) của thuyết tiến hóa thì sự sống đầu tiên có thể ra đời từ sự kết hợp ngẫu nhiên của các phân tử và nguyên tử vô cơ trong các phản ứng hóa học dưới một điều kiện môi trường thích hợp nào đó, sau đó sự sống tự nó tiến hóa thành sinh vật đa dạng như ngày nay. Nhưng khoa học hiện đại chỉ ra rằng sự sống chỉ có thể hình thành khi có mã DNA hướng dẫn sự tập hợp của các phân tử và nguyên tử theo một chương trình đã định trước. Không có mã DNA, không thể có sự sống. Vậy câu hỏi đặt ra là làm thế nào để có các mã của sự sống từ các phản ứng hóa học? Nói cách khác, các phản ứng hóa học thuần túy có thể tự nó tạo ra các mã của sự sống không? Làm thế nào để bạn có được mã của sự sống mà không cần có một thiết kế từ trước? Đó là câu hỏi chủ yếu mà Giải thưởng Evolution 2.0 đã đặt ra, và số tiền khủng 5 triệu USD sẽ được trao cho bất kỳ ai có thể trả lời được câu hỏi đó một cách rõ ràng, thuyết phục.
5 triệu USD, cơ hội và thách thức quá lớn
Tất cả những câu hỏi nói trên đều rất hợp lý về mặt khoa học, đòi hỏi khoa học PHẢI trả lời. Một số người cho rằng những câu hỏi ấy đã đưa khoa học tới GIỚI HẠN của nhận thức, không thể trả lời bằng khoa học. Nhưng những người đặt ra giải thưởng Evolution 2.0 hy vọng rằng câu trả lời nằm trong nguồn gốc của mã DNA ─ nếu khám phá ra nguồn mã DNA thì sẽ biết mọi sự thật của sự sống, và sẽ trả lời được tất cả những câu hỏi nói trên. Chưa biết niềm hy vọng này có khả thi hay không (có thể biến thành hiện thực hay không), nhưng rõ ràng đây là một cơ hội tuyệt vời cho thuyết tiến hóa: Nếu chỉ ra được nguồn gốc của mã DNA là một cơ chế tương tác vật chất ngẫu nhiên nào đó trong tự nhiên, đúng như lý thuyết Abiogenesis tưởng tượng, thì đây sẽ là một thắng lợi vĩ đại của thuyết tiến hóa, chấm dứt mọi nghi ngờ và tranh cãi đã kéo dài hơn 150 năm nay.
Nếu không, một lần nữa thuyết tiến hóa sẽ mất uy tín, bởi nó tự để lộ sự bế tắc trong việc giải thích các hiện tượng tự nhiên bằng những cơ chế vật chất thuần túy. Vì thế, Giải thưởng Evolution 2.0 đồng thời là thách thức quá lớn cho các nhà tiến hóa, đặc biệt vì giải thưởng này chỉ có thời hạn nhất định, thay vì kéo dài vô hạn như một số thách đố trong toán học.
Thật vậy, thông báo của giải thưởng cho biết:
“Giải thưởng Evolution 2.0 sẽ được mở cho đến ngày 17 tháng 11 năm 2026. Tổ chức Natural Code LLC có quyền chấm dứt, mở rộng hoặc sửa đổi cuộc thi vào thời điểm đó theo quyết định riêng của mình”.
Giả sử đến ngày 17/11/2026 mà vẫn không có ai đoạt giải và ban tổ chức giải tuyên bố chấm dứt giải, liệu có thể coi là thuyết tiến hóa đã thất bại chưa? Câu trả lời là CHƯA, vì biết đâu sau ngày 17/11/2026 sẽ có người tìm ra nguồn mã DNA thì sao? Đó là lý do để thuyết tiến hóa sống dai dẳng trong hơn 150 năm qua, mặc dù nó không hề có một bằng chứng nào ủng hộ các giả thuyết của nó ─ thuyết tiến hóa chứa đựng đầy rẫy những sự kiện không thể nào kiểm chứng được trong thực tế, như lý thuyết nồi súp nguyên thủy, lý thuyết đột biến dẫn tới biến đổi loài,…
(Còn nữa)
Nguồn: Viethungpham.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Sống đẹp lòng Đức Chúa Trời nên là mục tiêu của mọi Cơ-đốc nhân, nhưng chúng ta có thể làm gì để Chúa vui lòng? Một trong những câu trả lời thường gặp nhất là “làm một người có đạo đức tốt.” Tuy nhiên, thật đáng buồn là việc làm một người có đạo đức tốt chưa đủ để khiến Chúa mỉm cười.
Một câu chuyện trong Kinh Thánh minh họa rõ nhất vấn đề này cho chúng ta là Ma-thi-ơ 19:16-26. Một người thanh niên giàu có chức cao đến hỏi Chúa Giê-xu về những tiêu chí để một người được tính là đủ tiêu chuẩn vào Thiên Đàng. Anh ta hỏi Chúa Giê-xu, “Thưa Thầy, tôi phải làm điều lành nào để được sự sống đời đời?” Ngay từ câu hỏi đầu tiên, Chúa Giê-xu đã thấy cái sai lầm trong suy nghĩ của anh ta.
Hầu hết những người trong Hội-thánh ngày nay cư xử như thể con đường đến thiên đàng của họ, đến với các phước lành và ân huệ của Chúa là làm theo các luật lệ, dâng hiến cách hào phóng, phục vụ trong các mục vụ hay tham gia vào các công tác truyền giáo. Tại một thời điểm nào đó, nhiều người trong chúng ta đã có tư duy này. Bản chất tự nhiên của chúng ta là cố gắng tìm kiếm sự chấp thuận của Chúa qua các việc làm công đức của mình.
Đáng buồn thay, ngay cả những điều tốt nhất của chúng ta cũng không đủ tốt đối với Chúa. Đó là bởi vì tất cả chúng ta đều là tội nhân không xứng đáng có được ân điển cũng như sự hiện diện của Chúa. Rô-ma 3:10 nhắc nhở ta rằng “chẳng có một ai công chính cả, dù một người cũng không.”
Điều đó nói lên rằng, mặc dù chúng ta có cố sống đạo đức đến đâu đi nữa, chúng ta cũng không thể nào đạt đến mức độ mà Đức Chúa Trời yêu cầu để có được sự hài lòng của Ngài. Chúa muốn sự toàn hảo trọn vẹn, thánh thiện, không chỗ trách. Chẳng ai đạt được điều này.
Không ai, ngoại trừ một Con Người duy nhất: Chúa Giê-xu Christ. Con Đức Chúa Trời đã xuống thế gian và trở thành một con người, sống một cuộc đời mà chúng ta nên sống, và cuối cùng đánh đổi sự công bình của Ngài cho tội lỗi của chúng ta. Ngài đã mang lấy sự bất toàn và thiếu sót của chúng ta để đổi lấy sự tốt lành của Ngài.
Cách duy nhất để chúng ta có thể trở nên thánh khiết cũng là cách đơn giản nhất. Không cần phải làm việc lành để đổi chác ân điển của Chúa. Như Ê-phê-sô 2:8 đã nói cho chúng ta biết, “Vì nhờ ân điển, bởi đức tin mà anh em được cứu, điều nầy không đến từ anh em mà là tặng phẩm của Đức Chúa Trời.”
Vậy làm thế nào chúng ta có thể làm hài lòng Đức Chúa Trời nếu không qua lối sống đạo đức? Hê-bơ-rơ 11:6 là câu trả lời tốt nhất, “Không có đức tin thì không thể nào làm hài lòng Đức Chúa Trời; vì người nào đến gần Đức Chúa Trời phải tin rằng Ngài thực hữu, và Ngài là Đấng ban thưởng cho những ai tìm kiếm Ngài.”
Đức tin khiến chúng ta tin vào đấng Christ và công việc được làm trọn của Ngài đã đủ cho chúng ta. Điều này khiến chúng ta hạ mình thừa nhận rằng chúng ta không thể kiếm được ân điển của Đức Chúa Trời và làm hài lòng Ngài bởi sức riêng của mình. Nhưng niềm vui của Đức Chúa Trời là được nhìn thấy đấng Christ qua chúng ta khi chúng ta tin rằng công việc Ngài làm là quá đủ để khiến chúng ta được công bình trước mặt Đức Chúa Trời. Chúa không vui vì những việc chúng ta có thể làm cho Ngài, nhưng vui khi thấy chúng ta vui vẻ và mở lòng mình ra đón nhận những gì mà Ngài đã làm cho chúng ta.
Dich: Richard Huynh
Nguồn: christiantoday.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com