Giao Ước Với Áp-ra-ham
Khi một người nhìn vào xung đột đau lòng ở Trung Đông, họ chẳng thể nào không tự hỏi về bối cảnh từ trong Kinh Thánh.
Liệu ai có thể tìm được cách hoà giải và tiếng nói chung cho tình trạng nơi đó?
Kinh Thánh đã nói gì về xung đột giữa các con của Áp-ra-ham, hai anh em cùng cha khác mẹ?
Ích-ma-ên, người được cho là tổ phụ của dân Các Tiểu Vương Quốc Ả-rập, được sanh ra bởi người mẹ Ai Cập, là người hầu cho Sa-ra vợ của Áp-ra-ham. Và Y-sác được sanh ra bởi Sa-ra vợ của Áp-ra-ham, tổ phụ người Do Thái của Y-sơ-ra-ên.
Những vị trí và đặc quyền của hai anh em có chung nửa dòng máu này, khi được nhìn từ khía cạnh Thánh Kinh là gì?
Khi Áp-ra-ham được 99 tuổi và Sa-ra đã qua tuổi sanh nở, Đức Giê-hô-va đã đến gặp Áp-ra-ham, Ngài nói với ông rằng vợ ông là Sa-ra sẽ sinh một đứa con cho ông. Như chúng ta đọc trong Sáng thế ký 17:17-22: “ Áp-ra-ham bèn sấp mình xuống đất, cười và nói thầm rằng: Hồ dễ người đã trăm tuổi rồi, mà sanh con được chăng? Còn Sa-ra, tuổi đã chín mươi, sẽ sanh sản được sao? Áp-ra-ham thưa cùng Đức Chúa Trời rằng: Chớ chi Ích-ma-ên vẫn được sống trước mặt Ngài! Đức Chúa Trời bèn phán rằng: Thật vậy, Sa-ra vợ ngươi, sẽ sanh một con trai, rồi ngươi đặt tên là Y-sác. Ta sẽ lập giao ước cùng nó, để làm giao ước đời đời cho dòng dõi của nó. Ta cũng nhậm lời ngươi xin cho Ích-ma-ên. Nầy, ta ban phước cho người, sẽ làm cho người sanh sản và thêm nhiều quá-bội; người sẽ là tổ phụ của mười hai vị công-hầu, và ta làm cho người thành một dân lớn. Nhưng ta sẽ lập giao ước ta cùng Y-sác, độ khoảng nầy năm tới Sa-ra phải sanh cho ngươi. Khi Đức Chúa Trời đã phán xong, thì Ngài từ Áp-ra-ham ngự lên”.
Thế nên Ích-ma-ên và những hậu duệ của ông, là những vương quốc Hồi Giáo có được lời hứa ban phước của Chúa. Ngài đã hứa với họ rằng, họ sẽ trở nên đông đúc và trở thành những quốc gia thịnh vượng. Ngày hôm nay, có khoảng từ 200 đến 300 triệu người Hồi giáo, sống ở trên 20 quốc gia khác nhau ở Trung Đông, trên những vùng rất giàu dầu mỏ. Họ có thể bóp nghẹt nền kinh tế thế giới, nếu họ muốn. Họ thật sự rất quyền lực. Chúa đã giữ lời hứa với họ, Ngài đã ban phước cho Ích-ma-ên dư dật.
Sau tất cả những vụ thảm sát trải qua nhiều thế kỷ, hiện chỉ còn khoảng 15 triệu người Do Thái còn sót lại trên thế giới. Ở Y-sơ-ra-ên, là nơi còn nhỏ hơn cả đất nước bé xíu Hà Lan (thậm chí không thể tìm thấy đất nước Hà Lan trên bản đồ) có khoảng 5 đến 6 triệu người Do Thái, là đất nước không hề có dầu khí. Khoảng 4 đến 5 triệu người Do Thái vẫn đang sống ở Mỹ và 1 tới 2 triệu người đang sống ở Liên Xô cũ, số còn lại vẫn đang tản mác ở nhiều nơi khác trên khắp địa cầu này.
Thật ra tiên tri Xa-cha-ri đã dùng từ “ trên khắp địa cầu” trong lời tiên tri của ông (đó là cách dịch chính xác nhất, thay vì “trên khắp đất”, như so sánh với Xa-cha-ri 14:9) hai phần ba sẽ bị hạ xuống và biến mất; nhưng một phần còn lại sẽ được giữ lại” (Xa-cha-ri 13:8). Và khi người ta cộng tất cả số lượng người Do Thái đã bị tàn sát qua nhiều năm, thì lịch sử chứng minh rằng 2/3 người Do Thái đã bị quét sạch, và chỉ còn 1/3 còn sót lại. Và cho dù có ai muốn hiểu theo nghĩa “trên khắp đất”- theo hướng “Eretz Israel”, hay còn gọi – trên vùng “đất của Y-sơ-ra-ên”, thì lời tiên tri này cũng vẫn được làm trọn, vào những năm 70 sau CN và 135 sau CN, khi người Rô-ma giết trên 2 triệu người Do Thái và hầu hết số còn lại bị lưu đày- dẫu vậy luôn luôn có những người Do Thái sống tại Y-sơ-ra-ên, trong suốt 2,000 năm qua! Khi chúng ta đem hết những con số người Do Thái bị giết qua nhiều thế kỷ- với phần diệt chủng cuối xảy ra ở trại tập trung Đức- kết luận có thể nói rằng 2/3 người Do Thái đã bị quét sạch, và chỉ còn 1/3 còn sót lại.
Những phước hạnh thì được ban cho Ích-ma-ên, nhưng giao ước đời đời của Chúa thì Ngài dành cho Áp-ra-ham, và được xác chứng qua Y-sác, và sau đó là Gia-cốp. Vấn đề của Trung Đông không phải vì bên là Ả rập còn bên là Pa-lét-tin, bởi vì cả hai đều có những phước hạnh lớn lao ban cho họ, vì họ là dòng dõi của Ích-ma-ên. Vấn đề là hiện giờ Ả rập và Pa-lét-tin hiện nay hầu như đều theo Hồi Giáo và thờ phượng Allah- cũng như rất nhiều người khác ở các quốc gia như Indonesia, Malaysia, Pakistan, các nước cộng hòa thuộc Liên bang Xô viết cũ và phân nửa Châu Phi.
Mâu thuẫn ở Trung Đông là những mâu thuẫn về tâm linh, giữa Chúa của Áp-ra-ham, Y-sác, Gia-cốp, là Thiên Chúa của Y-sơ-ra-ên và những thần khác của thế giới này, bao gồm cả Allah và Hồi Giáo. Bởi vậy, những Cơ đốc nhân Ả rập và Cơ Đốc nhân Palestine, ở trong hoàn cảnh rất khó khăn. Không phải vì người Do thái hay Y-sơ-ra-ên, nhưng bởi vì những người anh em Hồi giáo Ả rập và Palestine.
( Còn tiếp )
Rev. Willem J.J. Glashouwer (23/ 02/ 2011)
Chủ tịch Cơ Đốc Nhân vì Israel Quốc tế
Chủ tịch danh dự Liên Minh Châu Âu vì Israel
Biên dịch Cơ Đốc Nhân Vì Israel Quốc Tế
Chuyên Đề
Lần đầu tiên bước vào một mối quan hệ lãng mạn đã dạy cho tôi rất nhiều điều, nhưng sau khi chia tay tôi mới học được nhiều bài học quý giá.
Đó giống như một chuyến tàu lượn để cố gắng hiểu ra rằng điều gì đó đã gây cho tôi rất nhiều cảm xúc thất vọng, bối rối và buồn bã (thành thật mà nói giờ nghĩ lại có một chút xấu hổ). Tuy nhiên, tôi đã học được rất nhiều điều về tình yêu của Đức Chúa Trời trong quá trình này, và vì lý do đó, trải nghiệm này rất đáng giá.
Yêu thương là cho đi không phải để nhận lại…
Nếu bạn đã từng trải qua một cuộc tình tan vỡ, thì bạn sẽ hiểu được cảm giác như bị nhấn chìm khi yêu một người không còn yêu mình nữa. Đó là cảm giác mất mát khi một người mà bạn mong muốn được ở bên cạnh và hướng tới một tương lai xa hơn với người đó lại không đáp lại tình cảm của bạn.
Tuy nhiên, đây không phải là điều chúng ta đã luôn làm với tình yêu mà Chúa dành cho mỗi một người trong chúng ta sao? Tôi nghĩ lại vô số lần mà tôi đã khước từ tấm lòng của Chúa vì những điều có vẻ tốt hơn: sự kiêu ngạo cá nhân, sự khen ngợi của người đời, muốn tự mình kiểm soát cuộc đời mình, nắm chắc trong tay thứ mình muốn… Tôi nghĩ về những lần tôi đã bỏ qua việc cầu nguyện với Ngài để dành thời gian cho điều gì đó dường như tốt đẹp hơn sắp xảy đến, những lần tôi đã bỏ qua lời kêu gọi từ Ngài để trưởng thành hơn trong sự thánh khiết và đức hạnh, cũng như rất nhiều lần tôi đã phớt lờ những bức thư tình từ Ngài (vâng… những bức thư tình này đều có trong Kinh Thánh.)
Điểm mấu chốt là Chúa vẫn luôn tiếp tục yêu mỗi một người trong chúng ta, dù chúng ta từ chối đón nhận tình yêu này. Ngài ban cho chúng ta mọi thứ theo đúng nghĩa đen. Ngài ban cho chúng ta chính mình Ngài, qua Con Ngài là Đức Chúa Jêsus Christ, mà không đòi hỏi một sự đáp trả nào.
Đó chẳng phải là điều mà đời sống Cơ-đốc kêu gọi chúng ta sao? Cho đi mà không đòi hỏi được đáp lại? Có lẽ chúng ta không còn có thể yêu người yêu cũ theo cách mà chúng ta đã làm trước đây. Tuy nhiên, chúng ta có thể tiếp tục những suy nghĩ tốt đẹp về người đó cũng như cầu mong những điều tốt đẹp hơn sẽ đến với họ, và chuyển hướng tình yêu này thành một thứ tình cảm thánh khiết hơn.
Tình yêu thương không bao giờ từ bỏ…
Có một lời khẩn cầu trong tâm trí chúng ta rằng: “Đừng bỏ cuộc. Đây chưa phải là kết thúc. Rồi mọi chuyện sẽ thay đổi. Mình chỉ cần đợi thêm một thời gian nữa, và anh ấy/cô ấy sẽ thay đổi quyết định.”
Có thể bạn cũng đã từng kinh nghiệm tiếng nói này trong đầu, bạn mong muốn mối quan hệ trở lại như xưa. Đây chẳng phải là những lời mà Chúa đã kêu lên khi Ngài tiếp tục đấu tranh vì chúng ta bất chấp sự thờ ơ của chúng ta sao?
Tôi nghĩ về khoảng thời gian mà mình đã chiến đấu để níu giữ người yêu cũ khó khăn như thế nào, và điều đó khiến tôi nghĩ, “Chà! Hãy tưởng tượng Đức Chúa Trời đã phải chiến đấu khó khăn như thế nào để mang tấm lòng của chúng ta quay trở lại cùng Ngài! ” Nếu trái tim con người lại có thể mạnh mẽ dường ấy khi khao khát một điều gì đó hoặc một ai đó đang ở cách xa họ, thì thật khó để có thể tưởng tượng trái tim của Đức Chúa Trời còn đập mạnh mẽ hơn thế nào nữa để đưa chúng ta trở về với chính Ngài.
“Ta đã bỏ ngươi trong một thời gian ngắn, nhưng Ta sẽ đón ngươi về với lòng thương xót vô hạn.” (Ê-sai 54:7)
“Những người lính canh gặp tôi khi họ đi tuần quanh phố. Tôi hỏi: “Các anh có thấy người mà lòng tôi yêu mến không?”” (Nhã-ca 3:3)
“Bây giờ Đức Giê-hô-va phán: Hỡi Gia-cốp! Đấng đã dựng nên con, hỡi Y-sơ-ra-ên! Đấng đã tạo thành con, phán: “Đừng sợ, vì Ta đã cứu chuộc con.Ta đã gọi đích danh con và con thuộc về Ta.”” (Ê-sai 43:1)
Có thể trong mùa mất mát này, chúng ta có thể suy gẫm về mong muốn cháy bỏng của Đức Chúa Trời là được ở bên chúng ta trong những thời khắc tốt đẹp nhất cũng như tồi tệ nhất, ngay cả khi chúng ta tìm kiếm Đức Chúa Trời trong những hình tượng mà Ngài biết không thể lấp đầy chúng ta.
Tình yêu thương khao khát những điều tốt đẹp…
Bạn có nhớ tôi đã nói trước đó rằng chúng ta vẫn có thể tiếp tục có những suy nghĩ tốt đẹp về người yêu cũ chứ? Chà, đây có thể là vấn đề khó khăn nhất. Có thể việc bạn gặp lại người yêu cũ mà người đó thì đã vui vẻ trở lại trong khi bạn vẫn còn khóc trong lòng sẽ khiến bạn cảm thấy điều này thật không công bằng chút nào. Có thể việc bạn nghĩ rằng giờ đây họ đã có một cuộc sống tốt hơn sau khi họ không hẹn hò với bạn nữa sẽ khiến bạn có cảm giác như bị tra tấn.
Tuy nhiên, có lẽ bạn cũng cần phải nhận ra rằng tình yêu đặt ra những đòi hỏi nhất định ở chúng ta, nó đặt ra những lựa chọn cho chúng ta, đôi khi chúng ta có thể bị tổn thương vì thế giới tan vỡ mà chúng ta đang sống.
Đức Chúa Trời muốn mọi sự tốt lành cho con cái Ngài, nhưng Ngài phải chứng kiến Con Một Ngài chịu đau khổ để chúng ta có thể chạm đến sự tốt lành này. Sự thật là tình yêu đặt ra những yêu cầu đối với mỗi người trong chúng ta, ngay cả khi chúng ta không cảm thấy dễ chịu để làm điều đó một chút nào.
“Tình yêu thương hay nhịn nhục, tình yêu thương hay nhân từ; tình yêu thương không ghen tị, không khoe mình, không kiêu ngạo, không cư xử trái lẽ, không kiếm tư lợi, không nhạy giận, không nuôi dưỡng điều dữ, không vui về điều bất công, nhưng vui trong sự thật. Tình yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, hi vọng mọi sự, chịu đựng mọi sự.” (1 Cô-rinh-tô 13:4-7)
“Chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho những ai yêu mến Đức Chúa Trời, tức là cho những người được gọi theo ý định của Ngài.” (Rô-ma 8:28)
Có thể mỗi khi phải vật lộn với những cảm xúc khó khăn của việc chia tay người yêu, chúng ta có thể cầu xin Chúa ban cho sự vững tin vào quyết định như vậy – rằng bằng cách nào đó những trải nghiệm này sẽ hiệp lại làm ích như Ngài đã định từ trước.
Một tình yêu trường tồn mãi mãi…
Tình cảm của con người có thể chỉ là trong thoáng chốc, nhưng tình yêu của Đức Chúa Trời mãi mãi trường tồn.
Tình cảm của bạn, nếu đến từ Chúa, thì sẽ tồn tại mãi mãi. Bạn có thể khẳng định tính vĩnh cửu của tình yêu đó như một món quà từ Chúa. Và bạn có thể dành tình yêu đó cho một người nào đó. Khi người đó ngừng yêu bạn, bạn không cần phải ngừng yêu họ (hay chuyển qua ghét họ). Ở cấp độ con người, những thay đổi có thể là cần thiết, nhưng ở cấp độ thuộc linh, bạn có thể trung thành với tình yêu của mình.
Thật tuyệt vời biết bao khi chúng ta có thể nắm giữ món quà thiêng liêng của tình yêu, “Tình yêu thương chẳng hề hư mất bao giờ.” (1 Cô-rinh-tô 13:8)
Dịch: Eunice Tu
Nguồn: madeinhisimage.org
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Mâu Thuẫn Khổng Lồ Trong Tư Duy Khoa Học – Phần 6 và hết: Một là chấp nhận bế tắc; hai là chấp nhận thỏa hiệp với thần học
BL 7: Tôi học được từ bài báo của Mike Adams một số tri thức khoa học rất bổ ích: Không phải loại vaccine nào cũng tuyệt đối an toàn. Không có một chất liệu nào chứa thủy ngân có thể tuyến bố không độc hại, bất kể lượng thủy ngân là bao nhiêu.
Những kết luận đó cũng tương tự như không có một chương trình computer nào là hoàn hảo, không thể đoán trước một chương trình computer sẽ chạy mãi mãi hay bỗng nhiện bị dừng (Sự cố dừng do Alan Turing khám phá năm 1936). Tất cả những kết luận đó đều là biểu hiện của Định lý Bất toàn do Kurt Gödel chứng minh năm 1931.
Nhiều nhà vật lý và nhà sinh học có lẽ vì không biết Định lý Gödel nên mới cố gắng giải thích nguồn gốc của vũ trụ và nguồn gốc sự sống. Nếu thấm nhuần Định lý Gödel thì có lẽ họ đã từ bỏ những tham vọng đó từ lâu, vì định lý này chỉ ra rằng không có một hệ logic nào có thể chứng minh nguyên lý đầu tiên của nó. Theo Gödel, muốn hiểu rõ hơn về hệ tiên đề của một hệ logic, phải đi ra bên ngoài hệ logic đó. Suy rộng ra, không thể giải thích được nguồn gốc của bất kỳ một hệ thống vũ trụ nào, bởi vì chúng ta và các lý thuyết của chúng ta luôn luôn nằm bên trong các hệ thống vũ trụ ấy. Không có cách nào để chúng ta có thể đi ra bên ngoài vũ trụ hoặc bên ngoài sự sống để nhìn vào vũ trụ hoặc nhìn vào sự sống từ bên ngoài.
“Chủ nghĩa tôn thờ khoa học” (Scientism) tự nó chứng tỏ rằng nó thiếu hiểu biết về Định lý Gödel. Nếu biết định lý này, con người sẽ khiêm tốn và từ bỏ thói tự phụ cho rằng khoa học sẽ có thể biết hết mọi thứ. Đơn giản vì Định lý Gödel chỉ ra rằng tư duy logic, tư duy duy lý có giới hạn. Chính Gödel tuyên bố: “Giải thích mọi thứ là bất khả” (To explain everything is impossible). Còn Blaise Pascal từ thế kỷ 17 đã nói: “Chức năng tối cao của lý lẽ là chỉ ra cho con người thấy rằng có một số thứ nằm ở phía bên kia tầm với của lý lẽ” (The supreme function of reason is to show man that some things are beyond reason). Vì thế “chủ nghĩa tôn thờ khoa học” thực ra một chủ nghĩa kém hiểu biết. Ấy thế mà nó lại tự phụ cho mình là hiểu biết nhất. Thật là lố bịch hết chỗ nói.
BL 8: Muốn khôn ngoan hiểu biết để tiến lên, con người không thể không chịu khó học hỏi những bài học sâu sắc về triết học nhận thức rút ra từ lịch sử, bởi “Toàn bộ lịch sử cuộc sống của nhân loại là cuộc đấu tranh giữa sự khôn sáng minh triết với cái vô minh”, như Philip Pullman, một nhà văn nổi tiếng người Anh, đã tổng kết.
Một trong những tấm gương khôn sáng điển hình là Albert Einstein. Ấy vậy mà cậu sinh viên Einstein ngày xưa ở Đại học Bách khoa Zurich, Thụy Sĩ, từng bị điểm 1 môn vật lý, với lời phê của thầy giáo: “Không có khả năng vật lý, nên chọn một ngành nghề khác không cần vật lý”. Cậu cũng từng bị thầy dạy toán là Hermann Minkowski gọi là “con chó lười biếng” (a lazy dog). Năm 1905, Einstein công bố Thuyết tương đối hẹp làm cả thế giới phải sửng sốt ngạc nhiên và thán phục trước những tư tưởng mới lạ đảo lộn thế giới quan khoa học. Riêng Minkowski không tin tác giả của lý thuyết vật lý mới mẻ này chính là “con chó lười biếng” mà ông đã từng mắng mỏ trước đây…
Ngược lại, có nhiều học trò luôn được điểm 10, mang tiếng học sinh giỏi, thậm chí xuất sắc, sau này có đủ các bảng vàng, danh hiệu, giáo sư, tiến sĩ,… nhưng thực ra chỉ giỏi “tụng kinh niệm phật”, thuộc lòng kinh kệ sách vở, cả đời không hề có một lúc nào dám “thanh thản nói ra ý kiến đi chệch khỏi định kiến của chung quanh… thậm chí không đủ sức có được những ý kiến như thế”. Cổ học gọi đám trí thức này là “hủ nho”. Hủ nho thời nào cũng có, thậm chí bây giờ còn đông hơn ngày xưa. Đặc điểm nổi bật của đám hủ nho là ghen tị, đố kị, sợ người có tài, sợ sự thật. Họ thường nhảy dựng lên mỗi khi nghe thấy ý kiến phê phán những kinh kệ mà họ tôn thờ. Thật tội nghiệp, vì Mike Adams gọi họ là những “incompetent thinkers” (những kẻ suy nghĩ bất tài).
Đám hủ nho trên thế giới ngày nay, không ai bảo ai, đều tự động đứng dưới ngọn cờ của “chủ nghĩa tôn thờ khoa học” (Scientism) ─ một trào lưu hoặc một xu hướng tư tưởng tôn thờ khoa học như chúa tể trong thế giới nhận thức, coi khoa học là vạn năng (có thể giải thích được mọi điều) và cái gì không được khoa học thừa nhận thì không đáng tin cậy,… Chủ nghĩa này có thể gọi bằng những cái tên khác như “chủ nghĩa duy khoa học”, “thuyết khoa học vạn năng”, hay thậm chí là “tôn giáo khoa học”.
Chủ nghĩa này đang ngày càng trở thành một vật cản to lớn của chính khoa học, và đó là lý do để Mike Adams lên tiếng phê phán gay gắt. Ông là một nhà khoa học nhiệt thành trong sự nghiệp bảo vệ sức khỏe tự nhiên cho con người, cả sức khỏe thể chất lẫn sức khỏe tinh thần. Muốn cho tinh thần khỏe khoắn, phải làm cho tinh thần sạch sẽ, triệt tiêu những căn bệnh thâm căn cố đế đã ăn vào lục phủ ngũ tạng, mà “chủ nghĩa tôn thờ khoa học” chính là một căn bệnh như thế.
Mike Adams đã làm rất nhiều để lột trần bộ mặt phản khoa học của căn bệnh có cái nhãn mác khoa học này. Ông nêu lên hàng loạt câu hỏi chất vấn, từ Thuyết tiến hóa cho đến Lý thuyết Big Bang, vấn đề Ý thức, và nhiều vấn đề hóc búa khác nữa, mà ông biết các tín đồ của “tôn giáo khoa học” không thể trả lời được. Qua đó ông muốn cảnh tỉnh sự dốt nát của họ và khuyên họ hãy từ bỏ thói tự phụ lố bịch và khiêm tốn lắng nghe sự thật, như thế khoa học mới vượt qua được những rào cản hiện nay để phát triển.
Lý thuyết Big Bang ra đời trong thế kỷ 20 như một hệ quả suy diễn logic trực tiếp từ các phương trình toán học trong Thuyết tương đối tổng quát của Einstein. Được hỗ trợ bởi những quan sát thiên văn của Edwin Hubble, Lý thuyết Big Bang chỉ ra rằng vũ trụ ắt phải xuất phát từ một điểm vật chất ban đầu ─ điểm vật chất cô đặc ở mức lạ thường với kích thước bằng zero, được gọi là điểm kỳ dị. Một vụ nổ lớn đã xảy ra làm cho điểm kỳ dị dãn nở đột ngột (lạm phát), rồi dãn nở dần dần thành vũ trụ ngày nay. Mọi chứng minh toán học của lý thuyết Big Bang là không thể chối cãi được. Các quan sát thiên văn vật lý trong một thế kỷ qua đã và đang cung cấp nhiều bằng chứng ủng hộ Lý thuyết Big Bang. Đó là lý do để lý thuyết này được hầu hết các nhà toán học và vật lý ủng hộ. Bản thân Einstein đã chứng kiến buổi báo cáo đầu tiên của lý thuyết này do George Lemaitre trình bày, và Einstein tán thưởng đến mức cho rằng đấy là một lý thuyết có ý nghĩa nhất kể từ khi Thuyết tương đối tổng quát của ông tìm thấy những ứng dụng thực tế. Murray Gell-Mann, một trong những nhà vật lý lớn nhất giữa thế kỷ 20, ca ngợi Lý thuyết Big Bang như cuộc trường chinh vĩ đại nhất trong lịch sử khoa học… Rất khó để bác bỏ những lập luận khoa học của lý thuyết này, vốn dựa trên logic toán học chứng minh chặt chẽ đồng thời được nhiều quan sát vật lý xác nhận. Nhưng chính tại chỗ khoa học đạt tới đỉnh cao nhất này, nó gặp phải một NAN ĐỀ lớn, gọi là “Nan đề Sáng thế” (Genesis Problem)
Đến đây, Lý thuyết Big Bang bế tắc và không thể tiến thêm một bước nào nữa, bởi không thể nào giải thích được nguồn gốc của điểm kỳ dị và nguồn gốc của Big Bang (vụ nổ lớn). Điểm kỳ dị ấy từ đâu mà ra? Ai hoặc cái gì kích hoạt nó để xảy ra vụ nổ lớn? Chắc chắn khoa học không bao giờ có thể trả lời được những câu hỏi này ─ những câu hỏi thuộc về bản thể luận đã có từ lâu đời trong triết học nhận thức ─ trừ khi nó thừa nhận một lực lượng siêu nhiên hoặc một tác động siêu nhiên nào đó là nguyên nhân của điểm kỳ dị và Big Bang. Nhưng như thế là từ bỏ chính bản thân khoa học, bởi khoa học xưa nay bác bỏ bất kể cái gì siêu nhiên, bất kể cái gì mà nó không thể tiếp cận hoặc không thể chứng minh.
Vậy một là chấp nhận bế tắc; hai là chấp nhận thỏa hiệp với thần học. Tại đây Robert Jastrow, một nhà khoa học của NASA, nhận xét hóm hỉnh: “Đối với nhà khoa học sống bằng niềm tin vào lý lẽ, câu chuyện kết thúc giống như một giấc mơ buồn. Anh ta đã leo lên ngọn núi vô minh; sắp chinh phục được đỉnh cao nhất; nhưng khi trèo lên tảng đá cuối cùng, anh ta lại được chào đón bởi một nhóm các nhà thần học đã ngồi ở đó từ hàng thế kỷ nay”…
Tình trạng bế tắc tương tự cũng xảy ra trong Lý thuyết về nguồn gốc sự sống của Thuyết tiến hóa. Lý thuyết này được gọi là “Abiogenesis” (lý thuyết phi tạo sinh), vì nó chống lại Định luật Tạo sinh (Biogenesis) do Louis Pasteur khám phá năm 1862. Lý thuyết phi tạo sinh đưa ra hàng đống giả thuyết nhằm chứng minh rằng sự sống ra đời một cách tự phát và ngẫu nhiên từ vật chất không sống. Nhưng sau khoảng 150 năm đã trôi qua kể từ ngày Darwin nêu lên giả thuyết về “cái ao nhỏ ấm áp” (a warm little pond) ─ “cụ tổ” của “Abiogenesis” ─ tất cả mọi thí nghiệm của lý thuyết này đều thất bại thảm hại, nhưng các nhà tiến hóa vẫn một mực khư khư ôm lấy cái lý thuyết dựa trên “đức tin tôn giáo” của họ. Hơn ai hết và hơn bao giờ hết, Thuyết tiến hóa chính là một thứ “kinh thánh” của những tín đồ theo “chủ nghĩa tôn thờ khoa học”!
Tóm lại, khoa học hiện đại, như Mike Adams chỉ ra trong bài báo của ông, đã và đang dẫn khoa học tới NIỀM TIN vào sự xuất hiện ngẫu nhiên của những vật chất ban đầu mà không thể nào kiểm chứng được. Nói cách khác, khoa học rốt cuộc cũng phải dựa vào ĐỨC TIN, chẳng khác gì những tôn giáo mà chính khoa học đã tự phụ bác bỏ. Đó là những mâu thuẫn khổng lồ trong tư duy ‘khoa học” mà Mike Adams vạch trần không thương tiếc trong bài báo của ông, để rồi kết luận rằng đã đến lúc phải hạ bệ các “linh mục cao cấp” của thứ tôn giáo đó, trả lại cho khoa tộc tinh thần khoa học đúng nghĩa ─ đó là tôn trọng sự thật khách quan, biết lắng nghe mọi ý kiến trình bày sự thật, lấy thực tế làm thước đo chân lý. Đó mới là con đường mở ra tương lai cho khoa học tiếp tục tiến lên.
PVHg, Sydney 10/02/2018
[1] Đoạn này là một lối nói bóng bẩy ám chỉ những người theo chủ nghĩa tôn sùng khoa học (mà Scientific American là một đại biểu) không muốn mọi người biết những lỗ hổng trong lập luận khoa học của họ, và cách ứng xử đó trái với tinh thần khoa học thực sự.
[2] Một tội phạm nổi tiếng.
[3] Một vị thánh Công giáo nổi tiếng đạo đức.
[4] Albert Einstein, Thế giới như tôi thấy, NXB Tri Thức, 2007, trang 210.
[5] https://viethungpham.com/2013/11/13/nan-de-sang-the-genesis-problem/
Nguồn: Viethungpham.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Cái đẹp là một điều vô hình. Bạn không tin tôi sao? Hãy xem nhé – chúng ta có thể nói rằng một bản nhạc hoặc bài thơ có giai điệu và ca từ đẹp đẽ, chúng ta có thể nói “bạn đã có một hành động thật đẹp”, hoặc ai đó có một tấm lòng đẹp… không điều nào trong số những điều này có thể nhìn thấy được.
Cũng giống như niềm vui, là thứ vô hình nhưng có thể được nhìn thấy trên biểu hiện khuôn mặt của một người, cái đẹp là một thuộc tính vô hình của Chúa. Vẻ đẹp của Ngài được bày tỏ qua những tạo vật trên trái đất để vẻ đẹp đó có thể được trải nghiệm và đánh giá cao ở dưới này. Nhưng những điều này chỉ là phương tiện cho bản thân cái đẹp. Như CS Lewis đã nói trong cuốn sách The Weight of Glory (tạm dịch là ‘Vinh Quang Vô Lượng’), “Nếu chúng ta tin rằng vẻ đẹp nằm bên trong những cuốn sách hay bản nhạc thì niềm tin đó sẽ phản bội chúng ta; vẻ đẹp không nằm trong những cuốn sách hoặc bản nhạc đó, mà chỉ đến thông qua chúng, và những gì đến qua chúng là những điều mà chúng ta đang khao khát. ”
Và khi nói về vinh quang vô lượng, các khái niệm về sự vinh hiển và cái đẹp có rất nhiều mối liên hệ với nhau, đặc biệt là trong ngôn ngữ Do Thái.
Cái đẹp được kết nối với sự vinh hiển của Đức Chúa Trời
Khi chúng ta nói về “sự vinh hiển của Đức Chúa Trời”, chúng ta đang nói về sự tỏ ra của những điều xuất chúng từ Đức Chúa Trời – điều gì đó về bản chất của Ngài được biểu hiện ra một cách rõ ràng. Khi chúng ta nhìn thấy hoặc trải nghiệm điều gì đó từ Chúa, các thuộc tính của Ngài được thể hiện rõ. Cái đẹp là biểu hiện của chính Đức Chúa Trời, đó là lý do tại sao những từ ‘làm cho vinh hiển’ và ‘làm cho đẹp’ trong tiếng Do Thái đều giống nhau (לפאר – lepa’air). Khi Đức Chúa Trời bày tỏ sự vinh hiển của Ngài qua chúng ta, chúng ta sẽ phô bày vẻ đẹp của Ngài nhiều hơn. Khi chúng ta thể hiện vẻ đẹp của Chúa theo nhiều cách khác nhau để vẻ đẹp đó có thể được đánh giá cao, chúng ta đang làm vinh hiển Đức Chúa Trời.
CS Lewis tiếp tục, “Những điều đẹp đẽ, những ký ức đẹp trong quá khứ của chúng ta — là những hình ảnh tốt đẹp về những gì mà chúng ta thực sự mong muốn; nhưng nếu chính những sự vật đó bị nhầm lẫn với cái đẹp được bày tỏ thông qua chúng, thì những điều đó sẽ biến thành những thần tượng câm, làm tan nát tấm lòng của những người thờ phượng chúng. Vì tự thân những sự đó không phải là cái đẹp; chúng chỉ là hương thơm của một loài hoa mà chúng ta chưa tìm thấy, dư âm của một giai điệu mà chúng ta chưa nghe thấy, giống như tin tức từ một đất nước xa xôi mà chúng ta chưa bao giờ đến thăm.”
Cái đẹp truyền tải một thông điệp về thiên đàng
Khi chúng ta ngắm nhìn một bông hoa đẹp, chúng ta biết đó là một phương tiện mang vẻ đẹp của Chúa, và chính vẻ đẹp ấy mang lại cho chúng ta một cảm giác an lành sâu sắc khi chúng ta trải nghiệm nó. Như Stasi Eldredge nói, điều đó gửi gấm một thông điệp rằng “mọi thứ sẽ tốt đẹp”. Một lần nọ, khi tôi đang lặn với ống thở ở Biển Đỏ, ngoài khơi bờ biển phía Nam của Israel, và xung quanh tôi là những loài cá và những rạn san hô tinh tế nhất với vẻ đẹp rực rỡ và lộng lẫy, tim tôi đập mạnh vì phấn khích, nhưng cùng lúc đó tôi cũng lại trải nghiệm một cảm giác bình an đến lạ. Hãy nhìn vào những tạo vật phi thường được tạo tác bởi chính bàn tay của Đấng Tạo Hóa này mà xem. Đấng đã tạo ra tất cả vẻ đẹp phi thường này chắc chắn biết Ngài đang làm gì. Ngài là một nghệ sĩ xuất sắc! Ngài là một thiên tài! Chúng ta an toàn khi được ở trong tay Ngài. Các kế hoạch và công việc của Ngài là toàn hảo và cực kỳ tinh xảo. Cái đẹp làm chúng ta yên tâm – nó mang một thông điệp bình an từ thiên đàng.
“Cái đẹp là siêu việt. Đó là kinh nghiệm trực tiếp nhất của chúng ta về cõi đời đời… Đôi khi cái đẹp trở nên sâu sắc đến nỗi nó đâm vào chúng ta với niềm khao khát. Khao khát về điều gì? Về sự sống tốt đẹp như vốn có. Cái đẹp gợi cho chúng ta nhớ đến một vườn địa đàng mà chúng ta chưa từng biết đến, nhưng bằng cách nào đó, tấm lòng của chúng ta đã luôn hướng về nơi khởi đầu đó.”
Cái đẹp nói với chúng ta về chính Đức Chúa Trời. Về vương quốc. Hy vọng. Về sự bình an trọn vẹn. Cái đẹp cho chúng ta thấy rằng Đấng Sáng Tạo của chúng ta là một nghệ sĩ không ai sánh bằng, Đấng không chỉ làm đúng từng chi tiết mà còn biến mọi thứ thành kiệt tác. Cái đẹp nói với chúng ta về Đấng là Chủ của mình; bầu trời hô vang sự vinh hiển của Ngài, và mọi tạo vật đều bày tỏ cho chúng ta một điều gì đó về tính nghệ thuật của Ngài.
Mỗi con người là một kiệt tác của Chúa. Điều này được nói trong Ê-phê-sô 2:10 – chúng ta là tạo vật do tay Ngài làm ra, công trình của tay Ngài, những tác phẩm của Ngài. Nhưng chúng ta có thể bày tỏ sự vinh hiển của Đức Chúa Trời nhiều hay ít – chúng ta có thể tràn đầy vẻ đẹp của Ngài – vẻ đẹp toàn mỹ – hoặc trở nên xấu xí từ bên trong. Quá trình làm vinh hiển và làm đẹp này được Đức Chúa Trời nói đến nhiều lần, đặc biệt là trong Ê-sai.
Mão hoa thay vì tro bụi
Ngài hứa sẽ ban mão hoa (điều đại diện cho cái đẹp) thay vì tro bụi trong Ê-sai 61:3, đó là một câu Kinh Thánh thú vị vì lý do này – hãy xem các chữ cái trong tiếng Do Thái, ngay cả khi bạn không thể đọc chúng, hãy tìm những điểm tương đồng:
פאר תחת אפר
Chữ đẹp (פאר) hoàn toàn giống với chữ tro (אפר), chỉ khác nhau về thứ tự của một nét. Đó là điểm mấu chốt. Đức Chúa Trời có thể thay đổi mọi thứ, Ngài lấy đi tro bụi của chúng ta, và thay vào đó là ban cho chúng ta vẻ đẹp (mão hoa) của Ngài.
Điều này được mô tả một cách hoàn hảo cho chúng ta trong Xa-cha-ri 3:3; “Bấy giờ, Giê-hô-sua đang mặc áo bẩn đứng trước mặt thiên sứ. Thiên sứ ấy bảo các vị đang đứng trước mặt mình rằng: “Hãy cởi áo bẩn của người nầy ra.” Rồi thiên sứ nói với Giê-hô-sua: “Hãy xem, Ta đã cất bỏ tội ác khỏi ngươi, và Ta sẽ mặc lễ phục tốt đẹp cho ngươi.””
Đức Chúa Trời cũng nhiều lần ban cho chúng ta bức tranh về những đồ trang sức và đá quý lộng lẫy trong Kinh Thánh, khi ngài mô tả quá trình làm đẹp / làm vinh hiển này, và ở cuối Xa-cha-ri 9 là những lời này, “…như những đá của mão triều thiên sẽ được cất lên trên đất. Sự nhân từ Ngài và sự tốt đẹp Ngài sẽ lớn là dường nào!” Bản NVB dịch câu này như sau “Ôi, họ thịnh vượng biết bao! Họ đẹp đẽ dường nào!” vì câu này có thể đề cập đến dân Y-sơ-ra-ên hoặc chính Đức Chúa Trời. Nhưng bạn thấy đấy, trong mọi trường hợp, đó là vẻ đẹp của Chúa! Đức Chúa Trời trang điểm cho chúng ta, dân sự của Ngài, bằng vẻ đẹp của chính mình Ngài. Ngài cất đi trang phục dơ bẩn của chúng ta và cho chúng ta trang điểm lộng lẫy để bày tỏ vẻ đẹp lộng lẫy của Ngài cho tất cả mọi người. Để làm vinh hiển Chúa, chúng ta phải bày tỏ cho mọi người biết Ngài là ai, để họ có thể thấy Ngài là Đấng tốt đẹp dường nào.
Dịch: Eunice Tu
Nguồn: oneforisrael.org
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
- CHÚA ƠI, NGỢI KHEN DANH NGÀI VÌ TẤT CẢ NHỮNG SỰ TỐT LÀNH CỦA NGÀI.
Ngài là tốt lành. Chúng con cùng ngợi khen danh Ngài vì chính mình Ngài, vì những gì mà Ngài làm và phước hạnh Ngài ban cho chúng con với một vị thế mới trong Chúa Giê-xu Christ.
“Chúc tụng Đức Chúa Trời, Cha của Chúa Giê-su Cơ Đốc chúng ta, là Cha thương xót và là Đức Chúa Trời ban mọi niềm an ủi. Ngài luôn an ủi chúng ta trong mọi cơn hoạn nạn để chúng ta, nhờ sự an ủi đã nhận được từ Đức Chúa Trời, có thể an ủi những người khác trong mọi cơn hoạn nạn họ gặp. Như sự đau đớn của Chúa Cứu Thế tràn ngập trong đời sống chúng ta thể nào thì nhờ Chúa Cứu Thế niềm an ủi của chúng ta cũng dồi dào thể ấy. Khi chúng tôi chịu hoạn nạn cũng là để cho anh chị em được an ủi và giải cứu. Hoặc chúng tôi được an ủi, ấy là vì sự an ủi mà anh chị em kinh nghiệm khi kiên trì chịu đựng cùng những nỗi đau đớn chúng tôi đã chịu. Hy vọng của chúng tôi nơi anh chị em thật vững chắc. Vì chúng ta biết rằng như anh chị em đã chia sẻ sự đau đớn của chúng tôi thể nào thì anh chị em cũng dự phần trong niềm an ủi của chúng tôi thể ấy.” – (2 Cô-rinh-tô 1:3-7)
“ Ngợi khen Đức Chúa Trời, Cha của Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta, là Đấng đã xuống đủ mọi phước lành thiêng liêng trên trời cho chúng ta trong Chúa Cứu Thế. Chính trong Chúa Cứu Thế, trước khi sáng tạo, Đức Chúa Trời đã chọn chúng ta để được thánh hóa không có gì đáng trách trước mặt Ngài. Vì yêu thương, Đức Chúa Trời đã ấn định trước cho chúng ta đúng theo mục đích tốt đẹp của ý định Ngài, được nhờ Chúa Cứu Thế Giê-xu làm con nuôi của Ngài để ca ngợi ân sủng vinh quang mà Đức Chúa Trời đã ban dư dật cho chúng ta trong Con yêu dấu của Ngài. Ấy trong Chúa Cứu Thế, chúng ta nhờ huyết Ngài được cứu chuộc, được tha thứ các tội phạm theo lượng ân sủng phong phú của Đức Chúa Trời mà Ngài đã ban xuống tràn đầy trên chúng ta cùng với tất cả sự khôn ngoan và thông sáng…” – (Ê-phê-sô 1:3–8)
- CHÚNG CON DÂNG MỌI SỰ CẢM TẠ LÊN NGÀI, CHÚA ƠI.
Ngài làm mọi điều, Ngài đem lại sự sống và Ngài ban phát hi vọng. Cảm ơn Ngài vì đã khiến chúng con giàu có, gìn giữ chúng con và trang bị cho chúng con với những phước hạnh thuộc linh. Chúng con không thiếu thứ gì cả. Chúng con ngợi khen danh Ngài.
“Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời, Ngài luôn luôn dẫn đầu chúng tôi trong cuộc diễu hành chiến thắng trong Chúa Cứu Thế và dùng chúng tôi để tỏa hương thơm, tức là sự hiểu biết về Ngài ra khắp nơi. Vì chúng tôi là hương thơm của Chúa Cứu Thế trước mặt Đức Chúa Trời giữa những người được cứu rỗi; còn giữa những người hư mất, đối với họ chúng tôi là tử khí đưa đến sự chết; đối với những người kia chúng tôi là sinh khí đưa đến sự sống. Nếu thế, ai là người xứng đáng cho những việc này?” – (2 Cô-rinh-tô 2:14-16)
“Tôi luôn luôn tạ ơn Đức Chúa Trời vì anh chị em về những ân sủng Ngài ban cho anh chị em trong Chúa Cứu Thế Giê-xu. Vì nhờ ở trong Ngài mọi lời nói lẫn sự hiểu biết của anh chị em đều được phong phú. Ngay cả lời chứng về Chúa Cứu Thế đã được thiết lập vững vàng trong anh chị em, đến nỗi anh chị em không thiếu một ân tứ nào trong khi trông đợi Chúa Giê-xu Christ chúng ta hiện ra. Chính Ngài sẽ gìn giữ anh chị em vững vàng cho đến cuối cùng, khỏi bị khiển trách trong ngày của Chúa Giê-su Christ chúng ta. Đức Chúa Trời là Đấng thành tín. Ngài đã kêu gọi anh chị em tham dự trong sự thông công với Con Ngài, Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.” – (1 Cô-rinh-tô 1:4-9)
- CHÚA ƠI, XIN NGÀI CHỮA LÀNH CHO CHÚNG CON.
Nếu chúng con không nhìn thấy sự chữa lành, xin hãy phán lẽ thật của Ngài vào lòng của chúng con. Hãy cho chúng con biết rằng tất cả những gì Ngài ban cho còn nhiều hơn là đủ rồi và, trong chúng con, Ngài vẫn luôn hành động.
“Đã ba lần tôi nài xin Chúa cho nó lìa khỏi tôi. Nhưng Ngài phán với tôi: Ân sủng Ta đủ cho con rồi, vì quyền năng của Ta trở nên trọn vẹn trong sự yếu đuối. Vì vậy tôi rất vui mừng tự hào trong sự yếu đuối của tôi, để quyền năng của Chúa Cứu Thế có thể ở luôn trong tôi.”- (2 Cô-rinh-tô 12: 8-9)
- CHA ƠI, XIN CHO SỰ THÁNH KHIẾT VÀ TÌNH YÊU THƯƠNG LUÔN ĐONG ĐẦY.
Xin Cha thánh hóa chúng con ngày càng hơn.
“Điều tôi cầu xin là tình yêu thương của anh chị em ngày càng gia tăng cùng với sự hiểu biết và tất cả nhận thức, để anh chị em nhận biết điều gì là tốt đẹp nhất và được trong sạch, không có gì đáng trách cho đến ngày của Chúa Cứu Thế; Được đầy trái công chính bởi Chúa Cứu Thế Giê-xu để tôn vinh và ca ngợi Đức Chúa Trời.” – (Phi-líp 1:9–11)
“Chúng tôi cầu xin Đức Chúa Trời giữ anh chị em đừng làm điều gì ác, không phải để chứng tỏ chúng tôi đủ tiêu chuẩn, nhưng để anh chị em làm điều lành, dù cho lúc ấy chúng tôi có vẻ như không đủ tiêu chuẩn. Vì chúng ta không thể nghịch với sự thật nhưng chỉ có thể thuận theo sự thật. Chúng tôi mừng vì khi nào chúng tôi yếu đuối thì anh chị em lại mạnh mẽ. Chúng tôi cầu xin cho anh chị em được trọn vẹn.” – (2 Cô-rinh-tô 13:7–9)
- CHÚA ƠI, CẦU XIN ÂN ĐIỂN DỒI DÀO TRONG CON, TỚI CON VÀ QUA CON.
Thưa anh chị em, nguyện xin Chúa Giê-xu Christ chúng ta ban ân sủng trên tâm linh anh chị em. A-men. – (Ga-la-ti 6:18)
Nguyện xin Chúa Giê-xu Christ ban ân sủng cho tâm linh anh chị em. – (Phi-líp 4:23)
Nguyện xin Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta ban ân sủng cho anh chị em. – (1 Tê-sa-lô-ni-ca 5:28)
Nguyền xin Chúa ở cùng tâm linh con! Nguyền xin ân sủng ở với tất cả anh chị em. – (2 Ti-mô-thê 4:22)
Nguyền xin ân sủng ở với toàn thể anh chị em. – (Tít 3:15)
- XIN CHÚA BẢO VỆ CON VÀ NHỮNG NGƯỜI CON YÊU.
Cũng hãy ban thêm sức cho chúng con nữa.
“và xin cầu nguyện để chúng tôi được giải cứu khỏi những người độc ác và xấu xa; vì không phải mọi người đều có đức tin. Chúa là Đấng thành tín, Ngài sẽ thêm sức cho anh chị em và bảo vệ anh chị em khỏi kẻ ác. Trong Chúa, chúng tôi tin tưởng nơi anh chị em rằng anh chị em đang và sẽ làm những điều chúng tôi truyền. Nguyện xin Chúa dẫn dắt tấm lòng anh chị em hướng về tình thương Đức Chúa Trời và sự kiên trì của Chúa Cứu Thế.” – (2 Tê-sa-lô-ni-ca 3:2–5)
- CHÚA ƠI, LẦN NỮA, CHÚNG CON LỚN TIẾNG TẠ ƠN NGÀI, CHA ƠI.
Cảm ơn Chúa vì đã ban cho chúng con khả năng để hầu việc Ngài.
“Cảm tạ Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta, đã ban năng lực cho ta, vì Ngài xét ta trung tín, giao việc phục vụ cho ta.” – (1 Ti-mô-thê 1:12)
Dịch: Chớp Êban
Nguồn: Christianheadlines.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Ba Mẹ Ơi, Con Xin Hỏi – Phần 69: Tại Sao Cơ Đốc Nhân Đôi Khi Làm Những Điều Không Tốt?
Có những lúc con nghe thấy một Cơ đốc nhân nói bậy khi người đó tức giận––hay khi làm chính mình bị thương. Hoặc có thể người đó lấy một cái bút không thuộc về mình. Hay con có thể nghe thấy một người tin Chúa nói sai sự thật và con tự hỏi, “Họ không biết rằng họ không được làm vậy sao?” Tất nhiên có lẽ họ biết. Vậy tại sao họ vẫn làm?
Con có thể nghĩ một khi đã trở thành Cơ đốc thì họ sẽ không bao giờ phạm tội nữa. Con có thể bị cám dỗ mà phán xét họ. Khi một người theo Chúa Giê-su không tuân theo Ngài thì tự nhiên con sẽ nghĩ rằng, “Đấy là tội lỗi!” Hay, nếu một tín hữu sa ngã và làm điều sai trái, con có thể nghĩ họ giả tạo. Một số người thì giả tạo––nhưng thường thì con không có quyền xét đoán họ giả tạo hay không.
Chúa Giê-su phán, “Các ngươi đừng đoán xét ai, để mình khỏi bị đoán xét. Vì các ngươi đoán xét người ta thể nào, thì họ cũng đoán xét lại thể ấy; các ngươi lường cho người ta mực nào, thì họ cũng lường lại cho mực ấy” (Ma-thi-ơ 7:1-2).
Và nhớ là Cơ đốc nhân thì vẫn là con người. Và con người thì bất toàn. Sứ đồ Giăng bảo Cơ đốc nhân không được phạm tội. Nhưng ông cũng nhận ra mọi người vẫn tiếp tục phạm tội. Ông viết: “Hỡi con cái bé mọn ta, ta viết cho các con những điều nầy, hầu cho các con khỏi phạm tội. Nếu có ai phạm tội, thì chúng ta có Đấng cầu thay ở nơi Đức Chúa Cha, là Đức Chúa Jêsus Christ.” Giăng cũng nói, “Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài .. tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác” (1 Giăng 2:1; 1:9).
Nếu con thấy một người trưởng thành làm điều sai, con có thể nhắc nhở họ. Nhưng hãy nói cách tôn trọng. Có thể họ không cố ý. Có lẽ khi con nhắc nhở họ, họ sẽ xin lỗi và sửa sai. Hoặc có lẽ họ không làm gì sai cả. Có lẽ con không biết hết sự thật. Có thể con không bao giờ biết trừ khi con nói ra một cách tôn trọng.
Nếu con thấy ai đó làm một điều rất nghiêm trọng, hãy nói với một người trưởng thành mà con tin được. Cho họ biết điều gì đã xảy ra. Đôi khi ngay cả Cơ đốc nhân cũng bị cám dỗ phạm những tội to lớn, và làm những điều cực kỳ sai trái. Có thể họ ăn cắp tiền, hay dùng chất kích thích, hay làm hại ai đó. Họ cần giúp đỡ, nhưng con có lẽ không phải là người thích hợp nhất để giúp họ. Họ cần sự giúp đỡ từ những Cơ đốc nhân trưởng thành mạnh mẽ để ngăn cản việc họ đang làm (xem Ga-la-ti 6:1).
*****
Tại sao chỉ trích và phán xét người khác thì thường không tốt?
Khi nào con cần lên tiếng về hành vi sai trái của một ai đó?
Nguồn: Viện Đào Tạo Môn Đồ Việt Nam
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Ai đã giết Chúa Jesus ở Giê-ru-sa-lem?
Giáo hội cho rằng người Do Thái đã giết Chúa Jesus, nhưng sự thật lịch sử là người ngoại bang La Mã phải chịu trách nhiệm. Chắc chắn, người Do Thái đã kết án tử hình Ngài trước Tòa Công Luận, nhưng họ không đủ thẩm quyển để thi hành án tử hình. Vì người La Mã nắm quyền nên người Do Thái phải xin phép viên tổng đống, trong trường hợp này là Bôn-xơ Phi-lát, bất cứ khi nào các tòa án luật Do Thái đưa ra án tử hình. Nếu ông chấp thuận lời thỉnh cầu của họ, binh lính La Mã sẽ thi hành bản án, như trường hợp của Chúa Jesus.
Bôn-xơ Phi-lát
Bôn-xơ Phi-lát là vị tổng đốc thứ năm của tỉnh Giu-đê thuộc La Mã vào năm 26-36 sau Công nguyên. Ông phục vụ dưới thời Hoàng đế Tiberius, và được biết đến nhiều nhất với việc chủ trì phiên tòa xét xử Chúa Jesus và ra lệnh đóng đinh Ngài.
Nguồn tư liệu về cuộc đời của Bôn-xơ Phi-lát là một bản văn khắc đã được gọi là Bia đá Bôn-xơ Phi-lát, xác nhận tính lịch sử của ông và thiết lập danh hiệu của ông là tổng đốc, trong đó có những đề cập ngắn gọn về Tacitus; Philo của Alexandria và Josephus. Ông xuất hiện trong bốn sách phúc âm kinh điển, Phúc âm Nicodemus, Phúc âm Marcion, và các tác phẩm ngụy thư khác. Dựa trên các nguồn tài liệu này, có vẻ như Bôn-xơ là một hiệp sĩ của gia đình Bôn-xơ, và kế vị Valerius Gratus làm tổng đốc của Giu-đê vào năm 26. Sau khi tại vị, ông đã xúc phạm sự nhạy cảm tôn giáo của người dân, dẫn đến sự chỉ trích gay gắt từ Philo, và nhiều thập kỷ sau là Josephus. Theo Josephus, vào năm 93 sau Công nguyên, Phi-lát được lệnh quay trở lại Rô-ma sau khi đàn áp gay gắt một cuộc nổi dậy của người Sa-ma-ri, xảy ra ngay sau cái chết của Tiberius, vào ngày 16 tháng 3 năm 37 sau Công nguyên. Marcellus là người thay thế Phi-lát.
Người Do Thái đã kết án tử hình Chúa Jesus và những người không phải là người Do Thái, người La Mã, đã đóng đinh Ngài khi họ thi hành bản án tử hình do Bôn-xơ Phi-lát chấp thuận và công bố. Chắc chắn Bôn-xơ Phi-lát đã bị áp lực nặng nề để thực hiện những gì người Do Thái muốn, mặc dù trong những dịp khác, ông ta không ngần ngại gửi quân đến để đàn áp đám đông Do Thái một cách đẫm máu, để cho họ thấy ai mới là chủ nhân thực sự của Y-sơ-ra-ên. Lu-ca 13:1 nói rằng Bôn-xơ Phi-lát đã trộn máu của người Ga-li-lê với của lễ của họ!: “…Chính lúc ấy, có vài người ở đó thuật lại cho Đức Chúa Jêsus về việc Phi-lát giết những người Ga-li-lê, khiến máu của họ hòa lẫn với sinh tế họ đang dâng…” Vì vậy, Bôn-xơ Phi-lát không phải là một người dễ bị đe dọa, nhưng trong trường hợp này, ông đã đồng ý với yêu cầu của đám đông. Nhưng ông vẫn là người phải chịu trách nhiệm, mặc cho ông đã rửa tay mình. Ma-thi-ơ 27:24: “…Vì vậy, khi Phi-lát thấy mình chẳng làm được gì, lại còn có thể nẩy sinh bạo động, nên lấy nước và rửa tay trước dân chúng, rồi nói: ‘Ta vô tội về huyết của người nầy; đó là việc của các ngươi!’…”
Đây là lý do tại sao, ngoài Chúa Jesus và Ma-ri, Phi-lát là cái tên duy nhất được đề cập rõ ràng trong Bài Tín Điều Các Sứ Đồ. Đây là một trong những Bài Tín Điều cổ nhất của Hội Thánh Cơ đốc đầu tiên, trong đó có chép: “(Ngài) chịu thương khó DƯỚI TAY BÔN-XƠ PHI-LÁT, bị đóng đinh trên thập tự giá, chịu chết và chôn.” Hội thánh đầu tiên vẫn biết ai phải chịu trách nhiệm. Vì vậy, về phương diện lịch sử, nói rằng chính người Do Thái đã sát hại Chúa Jesus là không chính xác.
(Còn tiếp…)
Giáo sĩ Willem J. J. Glashouwer
Chủ tịch Cơ Đốc Nhân vì Israel Quốc tế
Chủ tịch danh dự Liên Minh Châu Âu vì Israel
Biên Dịch Cơ Đốc Nhân Vì Israel Quốc Tế
“Vậy, hỡi anh em yêu dấu của tôi, hãy vững vàng chớ rúng động, hãy làm công việc Chúa cách dư dật luôn, vì biết rằng công khó của anh em trong Chúa chẳng phải là vô ích đâu” – I Cô-rinh-tô 15:58
Gần đây tôi có cơ hội được đi du lịch với gia đình con gái tôi đến Hawai. Chúng tôi đến đảo bằng máy bay. Sau đó, lái xe qua một quãng đường quanh co, ngoằn nghèo dài 48km vừa trải nghiệm chuyến du lịch mạo hiểm, vừa khám phá thiên nhiên. Cung đường nguy hiểm, nhưng cảnh đẹp đến ngạt thở. Trên đường cao tốc, chúng tôi đi qua điểm du lịch Bảy Hồ (Seven Sacred Pools) với những thác nước thơ mộng đổ từ trên cao xuống. Ngắm nhìn những dòng nước đó, tôi suy nghĩ đến kế hoạch của Chúa dành cho cuộc đời tôi.
Kế hoạch của Chúa
Hồ đầu tiên có những thác nước cao cùng mây bao phủ phía trên khiến tôi liên tưởng đến những điều mà người khác không dễ nhìn thấy trong cuộc đời mình. Đó cũng giống như mối quan hệ cá nhân của chúng ta và Chúa vậy. Người khác không nhìn thấy được nhưng Chúa biết chúng ta, và mối quan hệ giữa chúng ta với Ngài được lấp đầy qua thời gian cầu nguyện, đọc lời Chúa và giao thông với Đức Thánh Linh.
Khi cái hồ đầu tiên – mối quan hệ giữa chúng ta với Chúa được lấp đầy, nước trong hồ sẽ tràn qua cái hồ thứ hai, là mối quan hệ giữa ta với chồng – người gần gũi với ta nhất sau Chúa. Điều quan trọng trong cái hồ thứ hai này là xây dựng mối quan hệ tốt lành với chồng cũng như phát triển những tố chất trong vai trò người vợ mà Chúa mong muốn từ chúng ta. Sự vâng phục Chúa biểu hiện qua tình yêu, tấm lòng thuận phục và mối quan hệ với người phối ngẫu.
Nếu được như vậy, thì tình yêu trong hồ này lại được tràn đầy và đổ xuống cái hồ khác như những thác nước. Đúng vậy, thác nước này cần đổ xuống cái hồ mang tên “con cái”. Chúng ta có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng và yêu thương con cái mà Chúa ban cho. Những điều mà Chúa lấp đầy chúng ta sẽ được đổ đầy vào cuộc sống hôn nhân, rồi những phước hạnh đó sẽ tiếp sức cho chúng ta và khiến ta có một tấm lòng mềm mại để nuôi dạy con cái mình theo đường lối của Chúa.
Thác nước từ trên cao tiếp tục đổ đầy hồ “chúng ta với Chúa” rồi tràn qua cái hồ tiếp theo để thoả mãn những ước nguyện trong tâm hồn chúng ta – là nơi mà chúng ta nhận lấy khải tượng của Chúa cho dân sự Ngài. Điều này giống như giá trị của đời sống chúng ta. Qua việc giúp đỡ những người nữ khác để họ cũng biết đến Ngài sẽ khiến chúng ta trở nên sâu sắc hơn trong mối tương giao với Ngài. Những khải tượng này giống như những cái hồ trước đó, sẽ được đổ đầy và tiếp tục hành trình của chúng để đổ ra biển.
Đức Chúa Trời sẽ sử dụng chúng ta như thế nào ở cái hồ thứ 7? Chúng ta sẽ làm gì cho vương quốc của Ngài qua đời sống mình? Chúa muốn chúng ta có ảnh hưởng tốt tới những người gần gũi với chúng ta qua cách sống, cách cư xử cũng như lời ăn tiếng nói của mình. Ngài cũng muốn chúng ta giúp đỡ cho những người khác nữa.
Hãy cùng phác hoạ những phương pháp làm thế nào để có ảnh hưởng tốt đến người khác nhé.
Hãy học cách ban ra
Đây là điều mà Chúa nói rất nhiều lần. Hãy cho những người cần (Lu-ca 6:30), hãy cho một cách không cần trả ơn (câu 35), hãy cho như cách Chúa cho những người không biết đến ân điển của Ngài kể cả những người đối xử không tốt với chúng ta (câu 35), hãy chăm sóc người khác qua việc ban cho (câu 38).
Việc ban cho thể hiện qua nhiều cách sau đây:
Hãy ở cùng họ
Một hành động quan tâm đúng lúc có ý nghĩa hơn nhiều những lời nói sáo rỗng. Khi bạn ban cho hãy nhớ nguyên lý này, sự hiện diện của bạn là sự an ủi đối với họ. Cũng có thể bạn sẽ bối rối không biết nói gì, không biết tìm phân đoạn Kinh Thánh nào, nhưng trong hầu hết các trường hợp, chỉ cần nắm lấy tay họ hoặc vỗ vai họ hoặc ôm lấy những người đang đau khổ thì sự an ủi đó còn lớn gấp nhiều lần.
Hãy biết cho đi
Giống như trong mối quan hệ với chồng và con cái, hãy cho đi những nụ cười, những lời chào,những câu hỏi quan tâm, những cái ôm, những cái cầm tay và gọi tên của họ.
Hãy dũng cảm
Hãy ban cho một cách dũng cảm đối với người mà Chúa đặt để trên cuộc đời bạn. Bạn có bỏ qua một người nào đặc biệt không? Hãy cầu nguyện để hỏi Chúa và xin Ngài ban cho ta tấm lòng muốn chăm sóc cho người khác. Nhiều lúc chúng ta không có được sự tự tin trong mối quan hệ giữa người với người vì tội lỗi. Hãy tìm hiểu xem điều gì đang cản trở khải tượng của bạn. Hãy thực hiện bước đầu tiên và tiếp cận họ. Hãy chào hỏi họ và tìm cách xây dựng mối quan hệ. Trước mặt Chúa bạn không cần phải che giấu động cơ trong sạch của mình. Bằng cách này, bạn hãy tập gieo ra những điều tốt đẹp vào trái tim của những người bạn gặp mỗi ngày.
Hãy gieo ra cách rộng rãi
“Hãy biết rõ điều đó, hễ ai gieo ít thì gặt ít, ai gieo nhiều thì gặp nhiều. Mỗi người nên tuỳ theo lòng mình đã định mà quyên ra, không phải phàn nàn hay vì ép uổng; vì Đức Chúa Trời yêu kẻ dâng của cách vui lòng” (II Cô-rinh-tô 9:6-7)
Đây có thể là một quá trình. Thật ra tôi phải học điều này rất rất nhiều lần và vẫn đang học.
Có một cặp vợ chồng trẻ đến Singapore để truyền giáo và ở lại nhà chúng tôi. Người vợ trẻ đó mỗi lần đi mua đồ đều mua mỗi món đồ 2 cái để khi rời khỏi nhà chúng tôi thì để lại 1 cái làm quà. Tôi cũng cảm thấy vui thật sự. Nếu sự ban cho có thể khiến bạn và người khác đều vui mừng thì không có lý do gì mà chúng ta không làm điều này cho chính mình và người khác!
Đừng giữ lại bất cứ điều gì
Trong Châm-ngôn đoạn 3:27 có ghi rằng “Chớ từ chối làm lành cho kẻ nào xứng đáng, miễn là tay con có quyền làm điều ấy”. Điều gì kiến bạn có động lực để làm lành? Ví dụ như ngợi khen, khích lệ, chào hỏi, thái độ thân thiện. v.v đó là những điều chúng ta có thể ban cho.
Hãy học theo Chúa
Tôi thích tấm lòng ôn hoà của người chăn trong Lu-ca đoạn 15. Khi bị mất một con chiên trong số 100 con, người chăn chiên đó để lại 99 con để đi tìm con chiên bị thất lạc còn lại. Chúa chăm sóc chúng ta như vậy. Và Chúa cũng muốn chúng ta chăm sóc người khác như vậy.
Hãy có “mắt từ thiện”
“Người nào có mắt từ thiện sẽ được phước; vì người ban bánh mình cho kẻ nghèo khó”(Châm–ngôn 22:9)
Tuy tôi không thể được như Chúa, có con mắt soi sét khắp thế gian nhưng tôi luôn nhìn xung quanh để tìm những người khó khăn mà mình có thể giúp đỡ được. Tôi đã nhìn thấy rất nhiều người nữ khóc trong nhà vệ sinh, trong nhà thờ. Xung quanh ta có rất nhiều người cần sự giúp đỡ và những lời động viên của chúng ta. Và họ còn cần nhiều hơn vậy nữa.
Hãy là người khởi sự làm việc lành
Nếu bạn gặp một người đang cần sự giúp đỡ, hãy giúp đỡ người đó cách trực tiếp. Hãy hỏi họ cần gì và bạn có thể làm gì cho họ. Đừng chờ đợi người khác sẽ giúp họ, cũng đừng chạy đến chỗ mục sư. Chúa cho phép bạn gặp gỡ người đó, biết được hoàn cảnh của người đó nghĩa là Ngài muốn chính bạn sẽ giúp đỡ họ. Vậy hãy là người khởi sự giúp đỡ người khác.
Hãy sống đời sống cầu nguyện
Người nữ Chúa đẹp lòng là người nữ biết cầu nguyện. Người nữ đó không chỉ có tấm lòng chăm sóc mà còn là người nữ luôn cầu nguyện và biết cầu thay cho người khác. Lời cầu nguyện có thể thay đổi mọi sự qua năng quyền của Chúa. Hãy chọn thời gian, địa điểm và kế hoạch cầu nguyện. Bạn có thể chuẩn bị một quyển sổ cầu nguyện, ghi tên và những hạng mục của người mà bạn muốn cầu thay cho. Và tự kết ước rằng bạn sẽ cầu nguyện cho người đó bao nhiêu lần trong bao nhiêu ngày và thời gian ra sao. Kế hoạch cầu nguyện của bạn sẽ tạo động lực cho bạn trong việc vun đắp một tấm lòng biết chăm sóc cho người khác mà Chúa muốn phát triển ở trong bạn.
Cảm ơn Chúa vì Ngài không chỉ chăm sóc chúng con, mà còn rộng lượng với chúng con và không tiếc với chúng con bất cứ điều gì. Xin Chúa cho con học được điều này để có tấm lòng phục vụ và luôn biết cầu thay cho người khác. Để lời Chúa biến đổi con và những người nữ xung quanh con mỗi ngày. Amen!
Biên dịch: Mymy
Sưu tầm: A woman after God’s own heart
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Đôi khi cầu nguyện cũng giống như ném phi tiêu – đều phải nhắm mắt vậy. Bạn quăng những lời nói lên trời cao và thắc mắc liệu bạn có ném trúng hồng tâm không. Bạn hi vọng lời nói của bạn dính lại trên đó.
Gần đây, tôi từng có suy nghĩ, tôi không muốn những lời cầu nguyện của tôi chỉ chạm tới thiên đàng, mà còn thay tôi lay động quyền năng của thiên đàng. Tôi muốn khi cầu nguyện biết được rằng tôi cần tất cả của Ngài. Tôi muốn – những gì tôi đã ném lên, sẽ rơi xuống lại với sức mạnh như vậy – dấu tay của Chúa, rõ ràng, chạm vào từng lời của tôi. Hơn nữa, tôi muốn ý muốn của Đức Chúa Trời sẽ giáng trên đất này, không phải bởi vì tôi là người tốt (một điều xa vời), mà bởi Ngài là tốt lành, luôn là vậy. Và, Ngài là thừa đủ.
Vậy điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta cầu nguyện như Phao-lô? Chúa đặt để trong tôi câu hỏi này. Vì thế, tôi đã tìm mỗi lời cầu nguyện của Phao-lô (bên dưới) để tìm thấy bản chất của quyền năng Chúa ở trong lời Ngài. Những gì tôi tìm thấy là 12 kiểu cầu nguyện. Tôi hi vọng bạn sẽ được phước từ những điều này như tôi đã nhận được!
- CHÚA ƠI, CON CẢM ƠN NGÀI VÌ CỚ HỌ.
Con xin Ngài đổ đầy họ, và chính bản thân con, với sự nhận biết ý muốn, cùng với sự khôn ngoan và sự hiểu biết của Ngài. Thậm chí để con theo đuổi người khác với tình yêu thương, thông qua lời cầu nguyện, trong khi xây dựng sự hiệp một.
“Tôi cảm tạ Đức Chúa Trời của tôi mỗi khi nhớ đến anh chị em. Luôn luôn mỗi khi cầu nguyện, tôi vui mừng cầu nguyện cho tất cả anh chị em. Vì anh chị em đã cộng tác trong việc truyền bá Phúc Âm từ buổi ban đầu cho đến nay. Tôi tin chắc điều này, Đấng đã bắt đầu làm một việc tốt lành trong anh chị em cũng sẽ hoàn thành việc đó cho đến ngày của Chúa Cứu Thế Giê-xu.” – (Phi-líp 1:3-6)
“Trước hết, nhờ Chúa Cứu Thế Giê-xu tôi tạ ơn Đức Chúa Trời tôi về hết thảy anh chị em vì đức tin anh chị em được đồn khắp thế giới. Vì Đức Chúa Trời, Đấng tôi hết lòng phụng sự trong việc rao giảng Phúc Âm về Con Ngài, chứng giám cho tôi rằng tôi không ngớt nhắc đến anh chị em mỗi khi cầu nguyện, nài xin Đức Chúa Trời giờ đây thuận ý cho tôi có lúc nào đó được dịp tiện đến cùng anh chị em.” – (Rô-ma 1:8-10)
2.CHÚA ƠI, XIN CHO HỌ ĐƯỢC CỨU.
Xin Cha giúp họ hiểu sự trọn vẹn của tình yêu Ngài.
“Hỡi anh chị em, lòng tôi ao ước và cầu xin Đức Chúa Trời cho họ được sự cứu rỗi.” – (Rô-ma 10:1)
“Tôi cầu xin Chúa giúp anh chia sẻ đức tin cho người khác cách có hiệu năng đến nỗi anh hiểu hết mọi điều tốt lành dành cho chúng ta trong Chúa Cứu Thế. Vì thưa anh, tình thương yêu của anh đã đem lại cho tôi niềm vui mừng lớn và an ủi sâu xa, cùng làm tươi mát lòng các thánh đồ.” – (Phi-lê-môn 5-7)
- XIN DANH NGÀI ĐƯỢC VINH HIỂN.
Xin cho cuộc đời của con, và cuộc đời của những người xung quanh con, được đổ đầy bằng sự trọn vẹn của Chúa (qua tình yêu thương, hi vọng, quyền năng, sức mạnh, đức tin, ân điển và lòng thương xót).
Hãy vui mừng trong niềm hy vọng; kiên trì trong cơn hoạn nạn, kiên tâm cầu nguyện. – (Rô-ma 12:12)
Đừng lo lắng gì cả, nhưng trong mọi việc hãy cầu nguyện, nài xin và cảm tạ mà trình các nhu cầu của mình cho Đức Chúa Trời. Sự bình an của Đức Chúa Trời, là bình an vượt trên mọi hiểu biết, sẽ bảo vệ tấm lòng và tâm trí anh chị em trong Chúa Cứu Thế Giê-xu – (Phi-líp 4:6-7)
Xin Chúa làm cho lòng anh chị em vững vàng, thánh khiết, không có gì đáng trách trước mặt Đức Chúa Trời, Cha chúng ta khi Đức Giê-xu, Chúa chúng ta quang lâm cùng với tất cả các thánh của Ngài. – (1 Tê-sa-lô-ni-ca 3:13)
- XIN HÃY KHÍCH LỆ TẤM LÒNG CỦA CHÚNG CON, HỠI CHÚA LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI.
Cầu xin quyền năng của Chúa Giê-xu Christ tiếp tục đổ đầy với niềm vui, ân điển, bình an và hi vọng, qua Đức Thánh Linh.
Cầu xin Đức Chúa Trời là nguồn hy vọng ban cho anh chị em đầy dẫy mọi sự vui mừng và bình an khi anh chị em tin cậy Ngài, đến nỗi anh chị em đầy tràn niềm hy vọng bởi quyền năng Thánh Linh – (Rô-ma 15:13)
Nguyện xin ân sủng của Chúa Giê-xu ở trên anh chị em.- (1 Cô-rinh-tô 16:23)
Vì lý do đó, từ ngày được tin về anh chị em, chúng tôi không ngừng cầu nguyện cho anh chị em, xin Đức Chúa Trời cho anh chị em hiểu thấu ý chỉ Ngài bằng tất cả sự khôn ngoan và hiểu biết thiêng liêng, để anh chị em sống xứng đáng với Chúa, làm hài lòng Ngài mọi điều, kết quả trong mọi việc lành và càng ngày càng hiểu biết Đức Chúa Trời sâu rộng hơn. Nguyện xin Đức Chúa Trời tăng cường mọi quyền năng cho anh chị em theo sức mạnh vinh quang Ngài để anh chị em kiên trì chịu đựng mọi sự và hân hoan tạ ơn Chúa Cha đã làm cho anh chị em xứng đáng để hưởng phần cơ nghiệp với các thánh đồ trong sự sáng láng. Ngài đã giải cứu chúng ta khỏi uy quyền tối tăm và chuyển đưa chúng ta vào Vương Quốc của Con yêu dấu Ngài. Trong Đức Con chúng ta được cứu chuộc và tha tội – (Cô-lô-se 1:9–14)
- XIN CHO TẤM LÒNG CỦA CHÚNG CON CẦU NGUYỆN LUÔN LUÔN.
Cầu xin Chúa mở cửa cho sứ điệp của chúng con. Xin cho chúng con tuyên xưng danh Giê-xu. Xin cho chúng con giúp làm tươi mới những người khác. Cầu xin cho lẽ mầu nhiệm của Chúa Giê-xu Christ sẽ được mở ra khi chúng con dũng cảm truyền bá Phúc Âm.
Hãy kiên nhẫn cầu nguyện, tỉnh thức trong khi cầu nguyện và tạ ơn. Xin cũng cầu nguyện cho chúng tôi để Đức Chúa Trời mở cửa cho chúng tôi truyền giảng sứ điệp về sự huyền nhiệm của Chúa Cứu Thế chính vì đó mà tôi bị xiềng xích . Xin cầu nguyện cho tôi có thể công bố sứ điệp ấy rõ ràng như tôi phải nói. – (Cô-lô-se 4:2-4)
Thưa anh chị em, nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta và do lòng yêu thương trong Thánh Linh, tôi nài xin anh chị em hãy cùng tôi chiến đấu trong sự cầu nguyện cho tôi trước mặt Đức Chúa Trời, để tôi được giải thoát khỏi những kẻ vô tín ở Giu-đê và để chức vụ của tôi ở Giê-ru-sa-lem được các thánh đồ chấp nhận, ngõ hầu tôi được hân hoan khi đến thăm anh chị em và đẹp ý Chúa, cũng được tĩnh dưỡng với anh chị em. Nguyện xin Đức Chúa Trời bình an ở với tất cả anh chị em! A-men. – (Rô-ma 15:30-33)
Cũng xin cầu thay cho tôi để khi tôi lên tiếng, Chúa ban cho lời phải nói, và cho tôi được bạo dạn công bố huyền nhiệm Phúc Âm. Vì tôi là sứ giả của Phúc Âm trong vòng xiềng xích, nên xin cầu thay cho tôi mạnh dạn công bố đúng như tôi phải nói. – (Ê-phê-sô 6:19-20)
(Còn nữa)
Dịch: Chớp Êban
Nguồn: Christianheadlines.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Mâu Thuẫn Khổng Lồ Trong Tư Duy Khoa Học – Phần 5: Bình luận về bài báo của Mike Adams
Bình luận (BL) 1: Mike Adams hoàn toàn đúng khi nói rằng thuyết tiến hóa không có cách nào giải thích nguồn gốc sự sống, ngoài NIỀM TIN cho rằng sự sống đầu tiên ra đời một cách ngẫu nhiên từ vật chất không sống. Mọi nỗ lực chứng minh niềm tin này trong khoảng 150 năm qua kể từ ngày Darwin nêu lên giả thuyết “Cái ao nhỏ ấm áp” đến nay đều THẤT BẠI thảm hại.
Tuy nhiên, tôi không tán thành quan điểm của Mike Adams khi ông cho rằng “chọn lọc tự nhiên” vẫn đang tác động lên sự sống, vì theo tôi, bản thân khái niệm “chọn lọc tự nhiên” (natural selection) là một KHÁI NIỀM MÙ MỜ ĐẦY MÂU THUẪN. Thật vậy, sự “chọn lọc” ─ sự phân biệt cái có lợi với cái bất lợi để lấy cái có lợi và loại bỏ cái bất lợi ─ phải là một hành vi của một chủ thế có trí tuệ thông minh, hoặc một chủ thể có ý thức. Vậy ai là chủ thể của hành vi “chọn lọc”? Nếu hành vi này thuộc về tự nhiên thì tự nhiên phải có trí tuệ thông minh. Nếu tự nhiên chỉ là một tập hợp vật chất vô tri vô giác thì làm sao nó có thể có ý thức để chọn lọc? Vậy bắt buộc tự nhiên phải có ý thức. Nếu tự nhiên là một chủ thế có ý thức để điều khiển sự sống thì tự nhiên ấy chính là Nhà Thiết kế Thông minh, điều này trái với Thuyết tiến hóa (một lý thuyết không thừa nhận bất cứ sự can thiệp của một lực lượng siêu hình nào). Tóm lại, khái niệm “chọn lọc tự nhiên” mâu thuẫn với nền tảng tư tưởng của Thuyết tiến hóa.
BL 2: Lord Kelvin, tác giả của Định luât 2 của nhiệt động lực học, từ lâu đã khẳng định rằng tham vọng chứng minh nguồn gốc sự sống của thuyết tiến hóa vượt quá khả năng của các khoa học động lực (tức khoa học tự nhiên). Nói cách khác, khoa học tự nhiên không thể chứng minh nguồn gốc sự sống được. Định luật Tạo sinh (Biogenesis) do Louis Pasteur khám phá năm 1862 khẳng định sự sống chỉ ra đời từ sự sống, do đó nó tự động bác bỏ giả thuyết “Phi Tạo sinh” (Abiogenesis), tức lý thuyết nguồn gốc sự sống của Thuyết tiến hóa ─ lý thuyết cho rằng sự sống ra đời một cách ngẫu nhiên tình cờ từ vật chất không sống. Định lý Gödel cũng cho thấy mọi tham vọng chứng minh nguồn gốc của các hệ vũ trụ đều là không tưởng. Vì thế, cái gọi là “Abiogenesis” của Thuyết tiến hóa thực chất là phản khoa học, và trên thực tế nó là một giả thuyết thuần túy dựa trên NIỀM TIN của các nhà tiến hóa vào những tiên đoán viển vông của Darwin, tương tự như tín đồ của các tôn giáo tin vào Giáo chủ của họ. Nhưng đức tin của các nhà tiến hóa là chuyện nực cười và mâu thuẫn, bởi vì chính họ bác bỏ mọi niềm tin tôn giáo.
BL 3: Thí nghiệm duy nhất từng được quảng cáo rùm beng một thời như một thắng lợi vĩ đại của lý thuyết nguồn gốc sự sống là thí nghiệm Urey-Miller năm 1953. Nhưng chẳng bao lâu sau, trò quảng cáo này đã tự động tắt ngấm, vì các acid amin do Miller chế tạo ra không phải là acid amin cần cho sự sống. Nếu thí nghiệm Miller thực sự chế tạo ra sự sống, ắt nó đã đoạt Giải Nobel sinh học, vì vấn đề nguồn gốc sự sống là một trong những câu hỏi triết học khó nhất và lớn nhất. Ai trả lời được đều xứng đáng đoạt bất cứ giải thưởng khoa học nào mà con người có thể có. Các chất hóa học do Miller chế tạo ra không tuân thủ Định luật Bất đối xứng của sự sống do Pasteur khám phá năm 1848. Định luật này chỉ ra rằng mọi phân tử của sự sống đều bất đối xứng, hầu hết thuận tay trái. Trong khi đó các acid amin của Miller đều xuất hiện đối xứng theo xác suất cân băng trái phải với tỷ lệ 50-50. Các phản ứng sinh hóa không thể tạo ra phân tử chỉ thuận tay trái. Tồn tại một lực hoặc một chương trình hướng dẫn bí hiểm nào đó buộc các phân tử của sự sống xuất hiện bất đối xứng thuận tay trái. Đó là cái mà Mike Adams nói là “phép lạ thần thông” nào đó tạo ra sự sống”. Sai lầm của các nhà tiến hóa nói riêng và của “chủ nghĩa tôn thờ khoa học” nói chung là ở chỗ không thừa nhận những gì họ không nhìn thấy, và do đó muốn giải thích mọi sự kiện thông qua những tương tác vật chất thuần túy. Vì thế họ hoàn toàn bất lực trong việc giải thích những hiện tượng bí hiểm bên ngoài thế giới vật chất.
BL 4: Trong mục 3 Mike Adams bắt đầu đề cập đến vấn đề ý thức và tâm linh. Ông muốn nhấn mạnh đến sai lầm của “chủ nghĩa tôn thờ khoa học” trong việc không thừa nhận sự hiện hữu của ý thức như một hiện thực tồn tại khách quan phi vật chất. Từ đó dẫn tới những hệ lụy vô cùng đáng tiếc, đặc biệt là sự suy đồi đạo đức của con người
BL 5: Quả thật các nhà tiến hóa không có khả năng nhận ra sai lầm của họ. Có hai nguyên nhân. Một, sự vô minh. Hai, họ đã chót thờ phụng một tín điều và trung thành với tín điều đó còn hơn cả những “thánh tử đạo” ─ họ coi sự tiến hóa là một sự thật hiển nhiên, bất chấp việc không có bằng chứng thực tế trong hơn 150 năm qua. Tạp chí National Geographic còn trơ trẽn tuyên bố bằng chứng tiến hóa có mặt ở khắp nơi. Thực ra cái mà họ khoe khoang toàn là những biến đổi trong loài, mà họ gọi bằng một thuật ngữ đánh lận con đen là “vi tiến hóa” (micro-evolution). Nhiều nhà tiến hóa không ngần ngại tạo ra bằng chứng giả mạo để lừa đảo mọi người, cốt để bảo vệ “đức tin” của mình. Tại sao họ như thế? Mike Adams nói do họ kiêu ngạo, nhưng theo tôi, còn có một lý do khác, đó là sự vô minh. Một khi đã vô minh thì người ta có thể làm tất cả những gì mà một người có tâm trí lành mạnh không thể tưởng tượng nổi. Chẳng hạn, làm sao có thể tưởng tượng những người được coi là nhà khoa học mà có thể ăn ngon ngủ yên khi làm những việc lừa đảo cả thế giới: hàng loạt vụ lừa đảo của thuyết tiến hóa đã được phơi bày. Nhưng điều kỳ lạ là các nhà tiến hóa tảng lờ những sự thật này. Liệu có nhà tiến hóa nào có thể trả lời câu hỏi: nếu thuyết tiến hóa có bằng chứng thì tại sao phải làm bằng chứng giả mạo? Lương tâm nhà khoa học để đâu? Những ai thích bênh vực Thuyết tiến hóa xin hãy bình tâm nhìn vào sự thật: hàng loạt các vụ giả mạo và lừa dối về hóa thạch của Thuyết tiến hóa đã và đang bị vạch trần. Xin đừng tranh luận, hãy hỏi lương tâm của chính mình, rằng đứng trước sự gian lận, một con người trung thực nên có thái độ như thế nào. Cái gì thúc đẩy nhiều nhà tiến hóa gian lận và lừa dối nhân loại? Câu trả lời: Vì kho bằng chứng của Thuyết tiến hóa RỖNG TUẾCH! Nếu không có bằng chứng thì Thuyết tiến hóa sẽ sụp đổ. Vì thế, việc giả mạo bằng chứng là một nhu cầu sống còn của nhiều nhà tiến hóa. Thực tế họ đã rất thành công trong việc lừa dối này: “Người vượn Piltdown” đã lừa được cả thế giới trong 41 năm trời! 500 luận án tiến sĩ về tiến hóa đã lấy “Người Piltdown” làm đề tài (làm hoen ố bằng tiến sĩ)! Đặc biệt, nhờ bằng “Người Piltdown”, Thuyết tiến hóa đã thắng lớn trong vụ kiện John Scopes! Xin đừng tranh luận, hãy dành thì giờ để tìm hiểu xem Tạp chí National Geographic đã bao nhiêu lần công bố bằng chứng giả mạo của thuyết tiến hóa? Tại sao những vụ gian lận và lừa đảo về tiến hóa không được công bố rộng rãi cho mọi người biết? Vì thế, các nhà tiến hóa không chỉ kiêu ngạo như Mike Adams nhận xét, mà còn vô minh
BL 6: Một lần nữa Mike Adams đề cập đến vấn đề ý thức và ông cho biết các nhà khoa học theo “chủ nghĩa tôn thờ khoa học” không thừa nhận ý thức như một hiện thực tồn tại khách quan. Họ coi ý thức chỉ là một ảo giác, chứ không phải một hiện thực. Thực ra những nhà khoa học này không có lựa chọn nào khác, một khi đã trở thành tín đồ của “tôn giáo khoa học”. Bởi lẽ nếu họ thừa nhận ý thức là một hiện thực khách quan thì bắt buộc phải chứng minh ý thức là một dạng vật chất nào đó, nếu không thì ý thức phải là một hiện thực phi vật chất. Họ biết rõ rằng không thể chứng minh ý thức là vật chất, do đó buộc phải thừa nhận ý thức là một hiện thực phi vật chất. Lập tức suy ra rằng vũ trụ không chỉ có vật chất, mà còn có phi vật chất. Nhưng đến đây, khoa học tự nó mâu thuẫn với nó, bởi ngay từ đầu, khoa học đã tự phụ cho rằng vũ trụ chỉ có vật chất, ngoài vật chất không có bất cứ cái gì là phi vật chất. Tóm lại, chính khoa học hiện đại đã tự đưa mình đến bế tắc. Chỉ có thể vượt qua bế tắc này bằng cách thay đổi thế giới quan. Định nghĩa lại khoa học là gì, đồng thời xem xét lại thế giới quan khoa học. Thực tế Lý thuyết Thông tin đã đưa “chủ nghĩa tôn thờ khoa học” đến ngã ba đường, bởi vì lý thuyết này khẳng định thông tin không phải vật chất hoặc năng lượng. “Nếu không thừa nhận điều này thì không thể tồn tại trong thế giới ngày nay” (Nobert Wiener). Lý thuyết Thông tin buộc khoa học phải đưa ra những mô hình mới về vũ trụ.
Để cho tiện, ký hiệu: U = vũ trụ (universe); M = vật chất có khối lượng (mass, matter); E = năng lượng (energy); I = thông tin (information); Rm = hiện thực vật chất (material reality); Rum = hiện thực phi vật chất (unmaterial reality); x = cái chưa biết (unknown). Chúng ta sẽ có:
(Còn tiếp)
Nguồn: Viethungpham.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com