Hình ảnh từ Mục vụ Christ For All Nations (tạm dịch: Đấng Christ cho các quốc gia) với nhà truyền giáo Daniel Kolenda.
Một câu chuyện đầy năng quyền về tình yêu của Đức Chúa Trời dành cho trẻ em.
Ở tuổi 18, không ai có thể nghĩ một nữ hoàng của đêm vũ hội trung học và chủ tịch khối 12 sẽ đánh đổi cuộc sống của cô cho một điều gì đó phi thường. Tên cô là Katie Davis, cô đã lựa chọn đi theo lời kêu gọi của Đức Chúa Trời trên cuộc đời của cô hơn là đi theo những gì thế gian gọi là “cơ hội lớn hơn” dành cho cô.
Đức Chúa Trời đã viết những khao khát này vào trong lòng cô trong năm cuối cấp trung học khi cô có chuyến truyền giáo đến nước U-gan-da. Đó là thời điểm Chúa mở mắt cô và cô đáp lại bằng lời cầu nguyện và tìm kiếm Chúa, xin Ngài hướng dẫn cho các bước tiếp theo sau khi tốt nghiệp.
Đó là khi cô quyết định đi học đại học và cam kết một năm để dạy mẫu giáo tại một trại trẻ mồ côi ở U-gan-da.
Đức tin dẫn cô đến quyết định đó bởi vì cô muốn vâng lời Chúa mặc dù cô không biết điều gì đang ở phía trước. Cuối cùng, vào năm 2008, Katie đã chọn U-gan-da trở thành ngôi nhà cố định của mình và tham gia vào các đoàn truyền giáo Amazima, được đặt tên theo từ Uganda bản địa nghĩa là “chân lý”. Tổ chức này tìm kiếm cơ hội biến đổi các cuộc đời, khôi phục các mối quan hệ và thay đổi triệt để các cộng đồng thông qua lẽ thật về Chúa Cứu Thế Giê-xu.
Năm năm sau, ở tuổi 23, Katie đã trở thành một người mẹ cho 13 cô gái trẻ mà cô đã nhận nuôi và nuôi dạy như con của chính mình.
Katie nói với báo TODAY rằng cô đã học được tình yêu đích thực thực sự có ý nghĩa gì thông qua việc chăm sóc các con nuôi của mình, đó là bài học quý giá nhất mà cô từng học trong đời.
“Trong những ngày đầu của việc đặt những cái đầu ngái ngủ lên gối và huấn luyện những trái tim nhỏ bé để biết Chúa Giê-xu, tôi không nhận thức được tình yêu hoang dã, nhiệt thành, không thể chứa nổi mà tôi sẽ cảm thấy với các con. Tôi đã không biết rằng các con sẽ trở thành phần tồn tại trong tôi, khi chúng bị thương tôi sẽ đau đớn sâu sắc hơn tôi từng có trước đây, và khi chúng tỏ ra thích thú trước sự thành công hay thích thú Lời Chúa, trái tim tôi sẽ mở ra trong tôi và tôi sẽ không thể kìm được những giọt nước mắt của niềm vui. Tôi đã không biết rằng đôi khi tôi sẽ nhìn vào chúng và cảm thấy rất nhiều tình yêu mà trái tim tôi sẽ nhức nhối trong ngực tôi. ”
Sự hiểu biết về tình yêu vô điều kiện một ngày nào đó sẽ ảnh hưởng trên Katie không chỉ như một người mẹ, mà còn là một người vợ
Gặp Benji Majors.
Benji và Katie lớn lên ở cùng một thị trấn ở Franklin, Tennessee, nhưng chỉ gặp nhau lần đầu tiên khi Benji đến Uganda để phục vụ như một giáo sỹ.
“Chúng tôi cùng ở nơi chỉ có một vài đỉnh đồi để giữ cho cuộc sống của chúng tôi không bao giờ chạm mặt nhau,” Katie viết trên blog của mình.“Tình yêu của chồng tôi chỉ là một cách khác mà Đức Chúa Trời đã chọn để ban ra tình yêu quá lớn của Ngài trên tôi, một lời nhắc nhở liên tục rằng Ngài vui mừng với tôi, và hơn thế đối với mỗi người con gái của chúng tôi. Tôi ngắm chúng trở nên sống động dưới cái nhìn yêu thương của người cha mới của chúng, tôi nghe thấy niềm vui và sự chắc chắn trong giọng nói của chúng khi chúng gọi ‘Cha.’”
Cặp đôi này đã kết hôn vào năm 2015 và trong thời gian đó, cô không có bạn bè hoặc chị em gái ở gần để làm phù dâu, thay vào đó, cô có 13 cô con gái xinh đẹp tiếp tục làm lời chứng sống về sự trung tín, ơn cứu chuộc và tình yêu của Đức Chúa Trời.
Katie giải thích rằng cô sống ở U-gan-da và chia sẻ tình yêu của Chúa Giê-xu với những người cô gặp không có nghĩa là cô là một “giáo sỹ” tốt hơn bất cứ ai khác.
“Tôi sống ở U-gan-da với chồng và con tôi. Những người ở đây, họ là hàng xóm của tôi, bạn bè của tôi, gia đình tôi. Đây là những con đường mà chúng tôi sống, cộng đồng mà chúng tôi cầu nguyện cùng, những người bạn chúng tôi ăn cùng, những người mà tôi đã vẫy tay trên đường phố. Đây là nhà tôi. Những gì tôi làm ở đây, bạn có thể làm ở đó, ở ngay nơi bạn đang ở.”
Đoàn truyền giáo Amazima chỉ đơn giản là một trong nhiều cách bạn có thể tham gia phong trào phấn hưng và thêm sức cho một thế hệ trẻ với nền giáo dục và Chúa Cứu thế Giê-xu
Nhưng như Katie đã nói, “Bạn không cần phải ở U-gan-da để trở thành một nhà truyền giáo. Bạn không cần phải nhận nuôi 13 đứa con để trở thành tay hay chân của Chúa Giê-xu
Bạn có thể làm điều gì đó đơn giản để chia sẻ tình yêu của Thiên Chúa với những người xung quanh bạn. Hãy là một người hàng xóm tốt, gặp gỡ một người mới, đối mặt với mỗi ngày với niềm vui của Chúa, và được tràn đầy thuộc linh để mang phước cho những người xung quanh bạn. “Đúng nơi bạn đang ở.”
Dịch : Mymy
Nguồn : Godtv.com
Đám đông tại cuộc vận động của Tổng thống Donald Trump ở tiểu bang Missouri vào tối thứ Hai bắt đầu hát “Ân điển lạ lùng” sau khi một người phụ nữ ngã quỵ và cần sự chăm sóc y tế.
Trump đã tạm dừng cuộc vận động của mình trong khoảng năm phút sau khi yêu cầu khán giả nói lời cầu nguyện khi những nhân viên cấp cứu khẩn cấp tiến tới chỗ người phụ nữ.
“Cho hỏi có bác sĩ ở đây không? Bác sĩ? Cảm ơn,” tổng thống nói trong khi chỉ vào người phụ nữ trong đám đông, theo tờ The Hill.
Khi người phụ nữ nhận được sự chăm sóc y tế, hàng nghìn người trong đám đông đã bùng nổ thành bài hát.
“Thật là tuyệt vời”, Trump nói sau khi trở lại vị trí của mình phía sau bục đứng. “Tôi hy vọng rằng cô ấy sẽ ổn.”
“Ân điển lạ lùng” đã từng được thu âm hơn 6.600 lần theo báo cáo.
Bài hát này được viết vào năm 1779 (hoặc sớm hơn vài năm) bởi John Newton, là một nhà thơ và giáo sĩ người Anh đã qua đời năm 1807. Newton, khi còn là một thanh niên rời bỏ Hải quân Anh, đã bị bắt và bị trừng phạt và liên quan đến buôn bán nô lệ. Sau đó, ông đã được thức tỉnh tôn giáo trong một cơn bão trên biển trước khi trở thành một nhà soạn nhạc thánh ca đầy ơn.
Hơn hai thế kỷ sau, bài hát trở thành một nền tảng cố định xuyên suốt văn hóa thuộc linh và thế tục. Nó từng được hát ở một số buổi gặp mặt ảm đạm nhất của đất nước: Các buổi tưởng niệm sau vụ tấn công khủng bố 9/11, vụ đánh bom thành phố Oklahoma và cuộc tấn công giết hại 32 sinh viên tại Virginia Tech.
Câu đầu tiên đầy cảm hứng, quen thuộc: “Ân điển tuyệt vời, âm thanh đó ngọt ngào làm sao.”
“Ngợi ca Chúa từ ái ban ơn lạ lùng. Đời tôi vốn tràn những lệ đắng. Tôi đã hư mất bao ngày. Lầm than trong nơi tội đầy. Mà ơn Chúa thương xót khoan nhân.”
Các câu tiếp theo mang nội dung về sự đảm bảo, sự che chở và hoàn thiện.
Y tế khẩn cấp rất phổ biến tại các cuộc vận động của tổng thống mà an ninh đòi hỏi người tham dự phải có mặt vài tiếng tại địa điểm trước giờ hẹn.
Dịch : Mymy
Nguồn : Foxnews.com
Sau gần hai năm giam giữ ở Thổ Nhĩ Kì, Mục sư người Mĩ Andrew Brunson đã đến gặp Tổng Thống Trump tại văn phòng bầu dục vào thứ Bảy, và trong khoảnh khắc trọng đại, ông quỳ xuống cầu nguyện cho tổng thống và đất nước.
Khi Brunson nói với người đã nỗ lực để giải phóng ông khỏi chính quyền bắt bớ ở Thổ Nhĩ Kì rằng ông và vợ mình thường cầu nguyện cho ông và đề nghị cầu nguyện ngay bây giờ, Trump đáp lời, “Tôi cần lời cầu nguyện có lẽ nhiều hơn bất cứ ai khác trong căn phòng này. Vì vậy, đó là điều tuyệt vời, xin cảm ơn.”
Brunson quỳ xuống và đặt tay trái mình lên vai phải của Tổng thống Trump.
“Chúa ơi, con kêu cầu Ngài tuôn đổ Đức Thánh Linh trên Tổng thống Trump, xin Ngài cho ông trí khôn vượt bậc để hoàn thành các dự định Ngài có trên đất nước này và cho ông,” vị mục sư nói. “Con kêu cầu Ngài ban cho ông có sự thông sáng trong việc dẫn dắt quốc gia này đến sự chính trực, xin Ngài cho ông có sự kiên quyết, chịu đựng, và lòng can đảm để đứng trên lẽ thật. Con cầu xin Ngài hãy bảo vệ ông khỏi sự vu khống từ kẻ thù, xin Ngài làm ông như một ơn phước đối với quốc gia này. Đổ đầy bằng trí khôn, trí lực và lòng kiên quyết. Và chúng con chúc phước trên ông. Cầu xin ông trở thành ơn phước đầy tràn trên đất nước này. Trong danh Chúa Giê-xu Christ, chúng tôi chúc phước ông. Amen.”
Vợ của vị mục sư thêm lên lời cầu nguyện: “Con muốn cầu nguyện rằng xin Thánh Linh của Ngài sẽ ngự trên tổng thống, Đức Thánh Linh của sự khôn ngoan và thông hiểu, Thánh Linh của sự khuyên bảo, sự nhận biết và kính sợ Chúa.”
Brunson, người đã sống ở Thổ Nhĩ Kì qua hai thập kỉ, đã bị chính quyền Thổ Nhĩ Kì giam giữ vào tháng 10 năm 2016 về tội làm gián điệp có quan hệ với chủ nghĩa khủng bố.
“Một tòa án Thổ Nhĩ Kỳ hôm thứ Sáu kết tội Brunson có liên kết với khủng bố và kết án ông hơn ba năm tù giam, nhưng đã giải phóng mục sư truyền giáo 50 tuổi vì ông đã trải qua gần hai năm tù giam. Án gián điệp trước đó đã bị loại bỏ, “AP báo cáo.
“Từ một nhà tù Thổ Nhĩ Kỳ đến Nhà Trắng trong 24 giờ, cũng không tệ lắm,” Trump châm biếm hôm thứ Bảy.
Dịch: Trường Vinh
Nguồn: Dailywire.com
Hai ngày sau, ánh sáng đó lại hiện ra cùng tôi và tôi lại nghe tiếng nói gọi tên tôi: “Yusufu.” Bỗng dưng miệng tôi lại cử động được và tôi mở ra được, tôi lại kêu lên: “Rebekka”. Thì Ngài nói: “Con đã nói với Ta con bao nhiêu tuổi? Tôi trả lời: “Dạ 82.” Rồi người lại nói: “Nhưng không có tên đó. Ta không thấy cái tên đó.” Một lần nữa Ngài hỏi tôi: “Còn còn sống được bao nhiêu năm nữa?” Tôi trả lời: “Con không biết con còn bao nhiêu năm nữa.” Rồi Ngài phán với tôi bằng một lệnh truyền: “Hãy ngồi dậy!” Tôi ngồi dậy.
Vào thời điểm đó, ngồi dậy là điều mà tôi không làm được. Thế rồi tôi đã ngồi dậy. Sau khi tôi ngồi dậy rồi, tiếng nói lại ra lệnh cho tôi: “Hãy đứng lên! “ Và tôi đứng lên. Rồi tôi lại nghe: “Hãy bước đi!” Và tôi đi qua đi lại một vài mét rồi trở về giường. Người nói với tôi: “Kể từ bây giờ, từ thời điểm hôm nay, từ lúc nầy, hãy đi quanh đây và rao truyền trong danh Chúa Cha, Chúa Con và Đức Thánh Linh. Nhưng Ta muốn trong tương lai Ta sẽ thấy con.” Sau khi nói như thế với tôi, Ngài lại nói tiếp: “Điều con còn thiếu, con sẽ tìm gặp được trong Kinh Thánh.” Nhưng Ta nói với con lần nữa: “Hãy đi, rao truyền trong danh Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Linh. Nhưng khi ta trở lại, ta muốn được thấy con, vì cho đến bây giờ ta vẫn chưa thấy được con, và điều con còn thiếu, con sẽ tìm được trong Kinh Thánh.”
Lúc đó tôi là một người Hồi Giáo. Tôi không dám đụng tới Kinh Thánh. Vì Kinh Thánh đối với tôi là một cuốn sách cấm. Tôi sợ đụng tới Kinh Thánh thì bị ô uế. Nhưng tiếng nói tôi nghe được cho tôi biết rằng điều tôi còn thiếu tôi sẽ tìm được trong Kinh Thánh. Cho nên tôi tự hỏi: “Chúa ơi, biết tìm đâu ra một quyển Kinh Thánh để mà đọc đây?”
Rất may tôi có quen một người, tên là Johannes. Ông là một Cơ đốc nhân của bộ tộc Nyamwezi. Tôi cho mời ông đến. Sáng hôm sau, ông đến cùng tôi. Tôi hỏi ngay không quanh co: “Nầy, anh có Kinh Thánh ở trong nhà không?” Ông trả lời: “Có, tôi có một cuốn.” Tôi bảo ông: “Nếu anh có một cuốn, thì cho tôi đi, mang đến đây cho tôi nhé.” Ông ra về và đem quyển Kinh Thánh đến cho tôi. Rồi tôi hỏi ông: “Nầy, trong quyển Kinh Thánh của anh, có một đoạn có tên là Phi-líp phải không?”
Vì tôi không biết là trong Kinh Thánh có một sách được viết cho người thành Phi-líp. Ông trả lời: “Có, trong Kinh Thánh có thư Phi-líp.” Tôi nói: “Vậy, anh lật dùm tôi thư Phi-líp, đoạn 3.” Ông lật và tìm, cho đến khi tìm ra. Rồi tôi bảo ông: “Rồi bây giờ đoạn 3, anh tìm cho tôi câu 7.” Ông chỉ cho tôi câu Kinh Thánh và rồi tôi bảo ông: “Anh đọc câu đó lớn tiếng dùm tôi!” Và ông đọc: “Nhưng những điều có lợi cho tôi, vì cớ Ðấng Christ tôi xem như lỗ lã. Không những thế, tôi cũng xem mọi sự như lỗ lã, vì đối với tôi, được biết Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa của tôi, là điều cao quý vô vàn. Vì cớ Ngài tôi chịu mất tất cả; tôi xem mọi sự như rác rến để có thể được Ðấng Christ.” Đó là những gì tôi được nghe đọc và cũng là những sự điều được xem như là “sự lỗ” trong cuộc đời mình mà tôi tìm gặp được trong Kinh Thánh.”
Đó là điều mà tiếng nói đã bảo tôi: Điều con còn thiếu, con sẽ tìm được trong Kinh Thánh. Tất cả những gì mà trước đây tôi có được, có vẻ như điều có lợi, lại là sự lỗ cho tôi. Tôi được cho biết rằng mọi điều đó là sự lỗ vì cớ Đấng Christ. Tất cả mọi sự là sự lỗ.
Tôi không có một con đường nào để đi ngoài việc tìm đến với đức tin cơ đốc, vì tôi nghĩ rằng 10 tháng dài bị bệnh, không phương thuốc nào giúp tôi, tôi không ăn được đồ cứng, thuốc chích cũng không đem lại kết quả, cả bùa lẫn chú đều chẳng giúp ích được gì và sau 10 tháng NGÀI đã đến, để đỡ tôi đứng lên và phán với tôi rằng Ngài không tìm thấy tôi. Cả cuộc đời tôi, tất cả những tháng năm dài tôi làm việc, kết quả là Ngài chẳng thấy tôi (có nghĩa là không thấy tên tôi trong Sách Sự Sống). Và rồi NGÀI phán rằng: “Điều con còn thiếu, con sẽ tìm gặp được trong Kinh Thánh.” Và giờ đây tôi tìm được trong Kinh Thánh tất cả những gì tôi đã làm theo hiểu biết và lương tâm tốt nhất. Tất cả đều là lỗ lã. Thứ nhất tên tôi không có trong Sách Sự Sống, kế đến tất cả điều tốt của tôi chỉ là những thiệt hại, tất cả những điều tôi đã làm và đã tranh đấu để có được.
Vì vậy tôi quyết định một điều duy nhất mình có thể làm được, đó là tìm kiếm đức tin Cơ đốc. Nhưng tôi biết tìm nơi đâu? Nếu tôi rời bỏ Sansibar, tôi sẽ tìm đức tin cơ đốc ở đâu? Ở nhà tôi không thể tìm đến đức tin Cơ đốc được; vì ai cũng biết tiếng tôi, hoàn toàn là việc bất khả kháng. Ai cũng biết tôi là người theo Hồi Giáo, mà còn là một giáo sư dạy kinh Koran nổi tiếng. Tôi tâm sự với ai được rằng mình muốn trở thành Cơ đốc nhân và muốn biết thêm về đức tin Cơ đốc giáo? Do đó, tôi đã lên đường đi đến hòn đảo Pemba gần đó. Nhưng ở đó, ai cũng biết tôi nên tôi không thể tìm ra người dạy cho tôi đức tin cơ đốc mà không ai nhận ra mình.
Sau đó tôi đến đất liền ở Tanga. Nhưng ở Tanga, tôi nhận thấy rằng những thầy giáo kinh Koran đồng lao tất cả đều biết tôi. Cho nên tôi tiếp tục đi đến Muheza. Từ Muheza, tôi đi đến Kiberanga, ở đó có những cánh đồng cây Si-xan lớn và ở đó, cuối cùng tôi đã được nhận, vì tôi tìm một chỗ mà mình có thể học, mà không có ai biết mình. Tại đây, tôi được dạy đức tin nơi Chúa. Rồi một thời gian sau, tôi được học giáo lý ở Muheza, vì tôi lại lâm trọng bệnh, nên đã được làm báp-têm khẩn cấp. Sau lễ báp-têm, tôi khỏe trở lại. Nhưng không thích chữ viết trên giấy Chứng Nhận Báp-têm. Bởi tôi không muốn làm Cơ đốc nhân khẩn cấp, mà muốn làm một Cơ đốc nhân trưởng thành, khôn ngoan. Do đó, sau khi về thăm nhà ở Sansibar, tôi không ở lại nhà lâu mà đi đến Same. Tại đây tôi muốn học nhiều hơn về đức tin cơ đốc. Tôi xin vào học lớp tái xác niềm tin và được chúc phước.
Từ đó cho đến nay tôi liên tục đi và làm chứng ở bất kỳ nơi nào mình đến, như điều mình học được, để tất cả tha nhân quanh tôi biết được rằng: Chúa Cứu Thế sống. Có Ngài thật sự. Tôi tin chắc như đá tảng. Chúa Cứu Thế sống, Ngài có thật ngay cả ngày hôm nay, vì Ngài đã chạm đến tôi, đã làm cho tôi được lành bệnh và đứng lên. Những tháng bị bệnh đó không con người nào có thể giúp tôi được. Không có một người nào làm cho tôi thuyên giảm được một chút nào. Tôi đã nhận được sức lực từ Chúa Cứu Thế và ra đi bằng sức mạnh đó, và truyền ra những gì Ngài đã giao phó cho tôi. Như lời của tiếng nói, phán rằng: “Hãy đi mọi nơi và rao truyền trong danh Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Linh.”
Năm 1983, sau khi được lành bệnh, tôi đã đi khắp Tansania. Từ đó đến nay không một lần nào tôi bị bệnh lại. Bởi thế tôi vui mừng và đầy lòng biết ơn, ngày hôm nay được đứng trước mặt quí vị và làm chứng những gì đã xảy ra cho mình.
(Nguyên văn của Philippo Athman bằng tiếng Kiswahili, dịch theo bản tiếng Đức)
Dịch: Alice Hoàng Ái
Nguồn: Wertewelt.wordpress.com
Một trong những khu tuyệt vời nhất ở Giê-ru-sa-lem đã bị 99,9% du khách bỏ qua, và đáng buồn là thậm chí những hướng dẫn viên du lịch có học thức nhất cũng không nhận ra được ý nghĩa của nó. Mỗi năm có hằng triệu du khách đi qua nơi nầy. Trên thực tế, tôi đoán rằng chưa tới 1% người nhận thức được rằng khi đứng trong Phòng Cao, là họ đang đứng trong một căn nhà nơi đã trở thành Nhà Hội của Chúa Cứu Thế (Messianic) đầu tiên.
Các tín hữu Do Thái đầu tiên không có nhu cầu phải có nhà hội cho riêng mình. Họ tiếp tục đến nhà hội truyền thống – nơi duy nhất họ được nghe đọc Kinh Thánh mỗi tuần – và rồi, họ đã nhóm lại vào ngày đầu tiên của tuần (mà người ta tin rằng đó là buổi chiều Thứ Bảy, chứ không phải là Chúa Nhật – ngày làm việc tại Y-sơ-ra-ên). Những buổi nhóm đó được tổ chức ở tư gia, và họ cũng nhóm lại mỗi ngày ở Sân Đền Thờ (Công Vụ. 2:46).
Mặt khác, vào những năm 60, bách hại gia tăng dữ dội. Truyền thống vẫn tin rằng Yaakov (Gia-cơ), mặc dù là một trong những người Do Thái được tôn trọng nhất Giê-ru-sa-lem, đã tử đạo bởi âm mưu của những người Pha-ri-si vào năm 62 S.C. Sách Hê-bơ-rơ khích lệ các tín hữu Do Thái hãy đứng vững khi đương đầu với sự bách hại (Hê. 12:1-4).
Người Tin Chúa Cứu Thế Chạy Trốn Khỏi Giê-ru-sa-lem
Rồi những năm cuối thập niên 60, những người Xê-lốt, một nhóm người Do Thái muốn độc lập, thoát khỏi sự thống trị của La-mã đã dấy loạn. Quân đội La-mã bao vây Giê-ru-sa-lem và chuẩn bị san bằng thành phố nầy. Theo sử gia Eusebius, những người Do Thái tin Chúa Cứu Thế đã được thiên sứ cảnh báo phải chạy trốn khỏi đó. Họ nhớ lại lời của Yeshua (Chúa Giê-xu).
“Khi các ngươi thấy Giê-ru-sa-lem bị các đạo quân vây hãm, hãy biết rằng thời kỳ hoang tàn của nó đã gần. Bấy giờ ai đang ở Giu-đê, hãy trốn lên núi; ai đang ở trong thành, hãy tìm cách thoát ra; ai đang ở ngoài đồng, đừng trở vào thành…“ (Lu-ca 21:20-21).
Cho là ngày Chúa tái lâm đã gần kề, họ đã chạy trốn bên kia sông Giô-đanh. Sau khi Giê-ru-sa-lem bị tiêu hủy và những người Xê-lốt hoàn toàn bị đánh bại, cộng đồng Do Thái tin Chúa Giê-xu đã quay trở lại Giê-ru-sa-lem.
Một Khám Phá Lạ Lùng
Bây giờ, chúng ta đi đến hồi ly kỳ của câu chuyện.
Vào năm 1948, trong thời kỳ chiến tranh dành độc lập của Y-sơ-ra-ên, có một quả bom đã nổ gần khu mà theo truyền thống người ta cho là mộ của Vua Đa-vít (bây giờ chúng ta biết rằng chỗ nầy không phải là mộ của ông) và khu Phòng Cao. Năm 1951, một nhà khảo cổ người Y-sơ-ra-ên, ông Jacob Pinkerfeld, được giao trách nhiệm sửa chữa nơi hư hại. Đang khi làm công việc, ông khám phá ra tầng nguyên thủy của căn nhà và một phòng nhỏ. Ông Bargil Pixner, một tu sĩ dòng Benedictine, là học giả và cũng là khảo cổ gia nổi tiếng, viết thế nầy:
„Trong các nhà hội cổ người ta đã tìm thấy những hốc tường giống nhau, có chiều cao bằng nhau phía trên nền nhà và cho rằng đó là nơi được sử dụng để cất giữ hòm đựng các cuộn Kinh Torah.“
Nói cách khác, căn Phòng Cao nầy chính là một nhà hội cổ. Câu hỏi đặt ra là, phải chăng nơi đây đã là một nhà hội, và nếu không phải, thì căn phòng ấy đã trở thành nhà hội từ bao giờ? Một số người cho là trong cuộc chinh phục Giê-ru-sa-lem vào năm 70 SC, Tướng La-mã Titus đã giữ toàn vẹn khu vực nầy. Mặt khác, rất có thể – vì cả thành phố đều bị tàn phá – sau cuộc chiến năm 70 SC nơi nầy đã được xây lại thành một nhà hội. Chúng ta biết rằng trong thời kỳ của Yeshua, 40 năm trước đó, đây không phải là một nhà hội, mà chỉ là một căn phòng bình thường.
Pinkerfeld nhất trí rằng đây thật sự là một nhà hội, không như những nhà thờ có mặt tiền hướng về phía đông, ngôi nhà hướng về đền thờ hay nơi trước kia là đền thờ. Pinkerfeld nói đúng; đây là một nhà hội, nhưng ông kết luận rằng nơi đây không thể là một nhà thờ, hoặc theo quả quyết của chúng tôi, đây là nơi nhóm lại của những người tin Chúa Yeshua, lấy lý do rằng nhà có mặt tiền không hướng về phía đông để kết luận là sai lầm. Theo Bixler, các nhà thờ chỉ bắt đầu xây mặt về hướng đông vào hậu bán thế kỷ thứ tư.
Không Hướng Mặt về Đền Thờ, Nhưng …
Bixler cũng xác nhận mình đã lầm khi cho rằng tòa nhà hướng mặt về đền thờ. Đây rõ ràng chỉ là một giả thuyết, nhưng trên thực tế, khi được đo, hốc tường hay căn phòng nhỏ chen giữa tường mà người ta tìm ra có hơi bị thụt vào trong. Thay vì hướng về đền thờ, căn phòng ấy hướng về một chỗ ly kỳ nhất.
Hãy để ít phút suy nghĩ. Bạn quay trở về Giê-ru-sa-lem. Cả thành phố là một đống đổ nát. Vào năm 72 hay 73 gì đó SC. Đền thờ không còn nữa! Hãy lưu ý tầm quan trọng của điều nầy. Đền thờ là trung tâm sinh hoạt và tôn giáo của người Do Thái. Đền thờ cũng thật quan trọng trong đời sống của những anh chị em Do Thái tin nhận Chúa Cứu Thế vào thế kỷ thứ nhất. Anh chị em tín hữu nhóm nhau tại đó để thờ phượng và giảng dạy cũng như đến với người chưa tin (Công Vụ. 3-4, 5:25). Thực trạng không còn đền thờ là một thảm trạng. Hơn nữa, vào thời kỳ đó đền thờ thứ hai là một công trình kiến trúc đẹp tuyệt vời. Nó là một kỳ quan. Và giờ đây chỉ còn là đống đổ nát.
Tác giả thư Hê-bơ-rơ cảnh báo về điều nầy khi nói rằng: „Khi Ngài phán, “một giao ước mới,” có nghĩa là Ngài làm cho giao ước thứ nhất trở nên lỗi thời; và những gì trở nên lỗi thời và cũ kỹ sẽ biến mất chẳng bao lâu.“ (Hê. 8:13)
Các học giả đã sai lầm khi cho rằng tác giả muốn nói đến toàn bộ nghi lễ thờ phượng trong đền thờ – chỉ một vài năm sau đó, đền thờ đã bị lửa san bằng.
Một Lời Rủa Sả Đặt Ra Cho Mình Buộc Họ Phải Rời Bỏ Nhà Hội Truyền Thống
Bởi thế, không có đền thờ, những người Do Thái tin Chúa Cứu Thế đã quay trở về một nơi quan trọng khác – là Phòng Cao, được xem như tổng hành dinh của họ. Bị những người Do Thái truyền thống ruồng rẫy, khước từ, người Do Thái tin Chúa Cứu Thế đã xây nơi đó lại thành nhà hội riêng cho mình. Chỉ trong một vài năm, những người Pha-ri-si dưới thời Gamaliel II, đã thêm một „phước lành“ vào bài cầu nguyện Amidah – Bài Cầu Nguyện Đứng, gồm 18 phước lành, hiện nay là 19 (theo Wikipedia) dùng để cầu nguyện ba lần trong ngày – gọi người Do Thái tin Chúa Cứu Thế là tà giáo và rủa sả họ. Trên thực tế, chúng ta biết rằng những người Do Thái tin Chúa Cứu Thế trở về lại Giê-ru-sa-lem vào năm 72-73 SC có thể đã xây nhà hội cho riêng mình từ lúc lời rủa sả nầy trở thành một phần trong bài cầu nguyện Amidah và không cho phép họ được đến nhà hội nữa.
Hướng Nhà Được Đặt Thật Lạ Thường
Nhưng đến khi đặt hướng, họ quyết định không để cho căn phòng hướng về chỗ đền thờ cũ, mà hướng vào chỗ thay thế cho đền thờ.
Trên thực tế, nhà hội hướng về chỗ hiện nay là nhà thờ Mộ Thánh, nơi mà vào thời điểm nhà hội được xây, người ta cho rằng đó là khu vực có mộ của Chúa Giê-xu và là Gô-gô-tha, nơi Ngài bị đóng đinh trên thập tự giá.
Thật thuyết phục biết bao! Không có đền thờ, chỗ để người ta dâng tế lễ và được tha thứ, các Cơ đốc nhân đầu tiên đã phân biệt được rằng giờ đây nguồn của sự tha thứ vĩnh viễn và sự chuộc tội chính là ở Gô-gô-tha. Nhưng nơi nầy phải hướng về chỗ Chúa Giê-xu bị đóng đinh và thốt ra câu: „Mọi sự đã xong rồi,“ hay phải hướng về chỗ Chúa phục sinh, nơi có bằng chứng của sự cứu chuộc? Và phải chăng đó là một hướng bao gồm cả hai? Chúa được chôn ngay nơi mà Ngài bị đóng đinh, Kinh Thánh nói:
“Vả, gần chỗ Ngài chịu đóng đinh có một cái vườn, trong vườn ấy có một hang mộ còn mới, chưa chôn ai“ (Giăng 19:41).
Thêm Một Bằng Chứng!
Nếu cần có thêm bằng chứng rằng tòa nhà nầy chính là nhà hội của người Do Thái đầu tiên, dựng lên dành cho những người Do Thái tin Chúa Cứu Thế sử dụng, chúng ta còn có các chữ khắc trên tường mà Pinkerfeld tìm ra ở dưới những lớp nền được xây sau nầy (ông đã dời nhiều lớp nền để đi đến với lớp nền nguyên thủy). Những chữ khắc sau đó đã được in ra và xác định rằng tòa nhà đã được xây vào thế kỷ thứ nhất:
Một chữ khắc tường có các mẫu tự đầu của các từ Hy Lạp, có thể được dịch là: „Đấng Chiến Thắng, Chúa Cứu Thế, thương xót.“ Một mẫu khắc tường khác gồm những chữ có thể được dịch là: „Ôi Chúa Giê-xu, xin cho con được sống, lạy Chúa quyền uy.“
Sự kiện các chữ được dùng trong tiếng Hy Lạp là bằng chứng cho thấy sau nầy, vào năm 135 SC, khi tất cả những người Do Thái bị đuổi ra khỏi thành phố, tòa nhà đã được những Cơ đốc nhân người ngoại sử dụng. Việc nầy là để đáp trả lại sự bạo loạn vừa qua của người Do Thái. Hoàng đế La-mã Hadrian đã trục xuất hết tất cả những người Do Thái và biến Giê-ru-sa-lem thành một thành phố ngoại giáo. Ông thậm chí còn xây cả một đền thờ nữ thần Venus trên chỗ mà Yeshua bị đóng đinh.
Nhưng làm thế nào những người ngoại giáo nầy biết một cách chắc chắn rằng đây là nơi Phòng Cao và là Nhà Hội của Người Do Thái tin Chúa Cứu Thế?
Cho dù hoàng đế Hadrian đày tất cả những người Do Thái ra khỏi Giê-ru-sa-lem vào năm 135 SC, các Cơ đốc nhân mà tổ tiên không phải là người Do Thái vẫn có thể tiếp tục được sống tại Giê-ru-sa-lem thời kỳ sau Hadrian. Giáo phụ Eusebius thậm chí vẫn còn lưu giữ được danh sách của những giám mục người ngoại ở Giê-ru-sa-lem.
Đây chính là bằng chứng rõ ràng ủng hộ cho quan điểm những tín hữu Do Thái tin Chúa Cứu Thế tự lưu đày sau khi Giê-ru-sa-lem bị người La mã chinh phục, đã trở về, xây Nhà Hội Chúa Cứu Thế đầu tiên tại chỗ của Phòng Cao trước đó và đặt mặt tiền nhà hội hướng về đồi Gô-gô-tha – nơi khổ hình và là nơi phục sinh của Chúa Giê-xu.
Dịch: Alice Hoàng Ái
Nguồn: Charismanews.com
Nếu ông Athman ở Sansibar vẫn còn sống, thì cho đến lúc ông quay về với Chúa vào năm ông 80 tuổi, ông vẫn còn là một tín đồ Hồi Giáo nhiệt thành, nếu được hỏi “Ông có muốn trở thành Cơ đốc nhân không?”, có lẽ ông sẽ thẳng thắn trả lời là “Không”. Là một thầy dạy kinh Koran giỏi giang, có học thức, được đi đây đó và nhận được nhiều danh vị, vào năm 80 tuổi ông vẫn sống cuộc đời hài hòa với người chung quanh. Ông không những được những người có cùng đức tin trong đạo Hồi, mà còn được một người làm công “vô tín” của mình, một người làm vườn Cơ đốc nhân, nể nang tôn trọng.
Cái tên Hồi Giáo của ông là Yusuf. Ông mang cái tên đó 80 năm dài. Kể từ khi được làm báp-têm, năm ông được 83 tuổi, ông chỉ còn dùng cái tên báp têm của mình là Philippo. Khi xưa, lúc còn mang cái tên Yusuf, ông cho rằng trong đức tin của mình ông có đầy đủ tất cả, chẳng thiếu gì hết. Ông tin chắc rằng những việc lành của mình sẽ đem mình vào thiên đường, cho tới lúc ông mắc một chứng bệnh nặng, dai dẳng và từ đó được gặp Chúa Cứu Thế. “Sau nầy ngẫm nghĩ lại tôi biết chắc chắn rằng: Chính Chúa Cứu Thế không muốn thiếu tên tôi trong Sách Sự Sống. Bởi thế, Ngài đã đến cùng tôi.”
Lần đầu tiên tôi gặp người anh em Philippo Athman là trong một Giáo Hội Nghị năm 1985 ở Nam Tansania, lúc được nghe bài làm chứng rất gây ấn tượng về cuộc đời ông. Sau khi được nghe ông nói, tôi và nhà tôi còn được uống nước, chuyện trò với ông ở nhà. Qua cuộc gặp gỡ nầy, tôi càng được rõ rằng: Truyền giáo không phải là thuyết phục một người có niềm tin khác để họ đến với Chúa. Mà đúng hơn, tất cả là do chính Đức Chúa Trời hằng sống, Cha của Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng bày tỏ Đức Chúa Trời có thật trong Đức Chúa Con. Trong trường hợp bình thường Chúa dùng ít nhất một người nào đó như là tác nhân đầu tiên và lời chứng về cuộc đời người đó trong lời nói và hành động. Trong trường hợp của Philippo Athman những tác động quyết định xảy đến mà không cần có đến việc làm của một Cơ đốc nhân nào. Trong đời sống của ông, chưa hề có lần nào ông được nghe lời làm chứng của một Cơ đốc nhân hoặc của Kinh Thánh. Trong thế giới Hồi Giáo, người như Philippo Athman không phải là trường hợp duy nhất. Điều đó cho thấy rằng, sự cứu rỗi chỉ tìm được trong danh Chúa Cứu Thế Giê-xu, Con Đức Chúa Trời; nếu không, có lẽ Chúa Giê-xu đã không bày tỏ mình cho một người ngay thẳng, chân thật, nghĩ và sống cho tha nhân theo kinh Koran như Philippo Athman.
Trong chuyến đi thăm Tansania vào năm 1997 tôi muốn đến thăm người anh em yêu dấu trong Chúa Cứu Thế bằng bắt kỳ mọi giá, và để được nghe nhiều hơn về cuộc đời của ông. Tiếc là tôi đến quá trễ. Một năm trước đó, năm 1996 ông đã về với Chúa, Đấng mà 16 năm trường ông vẫn luôn làm chứng dù trong khi tuổi cao. Ít ra tôi vẫn còn có được cuộn băng cassette thu lại lời làm chứng của ông khi xưa. Cho nên, nhờ vào cuộn băng nầy mà lời làm chứng của ông là được đến với mọi người.
Tên tôi trước đây là Yusufu Athmani. Sinh quán tôi ở Sansibar, một hòn đảo nằm ở miền Đông Châu Phi và là một nơi có 99 % dân số theo đạo Hồi. Tôi sinh ngày 25 tháng 9 năm 1901. Tôi đứng trước quí vị ngày hôm nay là một người đã 86 tuổi, để làm chứng về những gì tôi từng trải.
Sinh ra tôi đã là người đạo Hồi. Cha tôi là giáo sự dạy kinh Koran. Ông xuất thân từ một bộ tộc ở Madagaskar và rồi đã đến Sansibar để dạy kinh Koran. Tôi đã nối tiếp cha tôi làm công việc nầy. Tôi đã học tiếng Ả-rập, học xong tiếng Ả-rập, tôi đã học tiếng Anh cho đến lớp 8. Rồi việc học tiếp tục để trở thành giáo sư dạy tiếng Ả-rập, vì tôi muốn trở thành giáo sự dạy kinh Koran cao cấp. Rôi tôi đã trở thành giáo sự dạy kinh Koran và tiếp tục học trong đức tin và học từ kinh Koran.
Vào năm 1965 tôi được công nhận là giáo sư Koran cấp cao. Tôi đảm nhiệm công việc nầy cho tới năm 1983. Suốt thời gian nầy, tôi rất vui sướng làm công việc với tư cách giáo sư kinh Koran. Tôi rất thích công việc ấy, vì tôi thương yêu mọi người và mọi người cũng rất kính trọng tôi. Tôi luôn vui thích về công việc và nghĩ rằng mình sẽ được vào thiên đàng, vì đã làm trọn hết những gì cần phải làm trọn. Tôi đã đi hành hương nhiều lần ở Mekka. Chẳng những mặc áo choàng trắng mà còn quàng khăn của các giáo sự dạy kinh Koran và thêm những huy chương đặc biệt khác nữa. Nhưng từ thuở nào, Chúa đã nhìn tôi với ánh mắt xót thương.
Một ngày kia tôi ngã bệnh và nằm liệt giường. Lúc bệnh càng lúc càng trầm trọng thêm, người ta đã gọi một bác sĩ đến. Các bác sĩ của chúng tôi đều là người Hồi Giáo và tôi cho gọi một ông đến. Ông khám bệnh cho tôi, nhưng chẳng thấy bệnh gì. Ông kéo hai đồng nghiệp đến để cố vấn, rồi thêm hai bác sĩ nữa, và họ cũng khám bệnh cho tôi, nhưng họ cũng chẳng tìm thấy gì. Vì thế những người bạn của tôi quyết định đưa tôi đến bệnh viện. Nhưng những người khác bảo: “Tới bệnh viện làm gì, vì ngoài việc cho thuốc uống ra có ai làm được gì hơn. “ Và như thế cuối cùng họ để tôi ở nhà. Chữa trị kiểu nào cũng không hết bệnh. Thuốc uống thì tôi nôn ra, còn thuốc chích vào thì người tôi sưng lên cả. Tôi cũng chẳng ăn được gì, vì ăn rồi là nôn ra, và cái duy nhất mà tôi còn cho vào người được là một cốc trà vào buổi sáng, một cốc vào buổi trưa và một vào buổi tối. Suốt một tháng trời tôi nằm ở nhà, chẳng ăn cũng chẳng uống thuốc. Sau cùng, người ta đưa tôi vào bệnh viện. 9 tháng ròng rã tôi nằm trong đó, không ăn và không uống thuốc. Tôi cũng không còn nói được nữa. Miệng tôi như bị khóa lại. Điều duy nhất tôi còn làm được đó là còn nghe. Bệnh càng ngày càng tồi tệ hơn. Cuối cùng người ta phải xoay trở tôi trên giường, tôi không thể nói được và chẳng còn thấy được. Không ai tìm ra được đó là bệnh gì.
Chín tháng tôi nằm đó trong vô vọng. Rất may là lúc đó bỗng có một bác sĩ từ bệnh viện Muhimbili ở Dar-es-Salam (một bệnh viện lớn nhất trong nước) đến. Các bác sĩ ở Sansibar đến xin ông cố vấn, và nhờ ông đến xem tôi. Ông đã đến và tôi nghe được những gì ông nói. Họ giới thiệu về tôi và nói: “Đây là một giáo sư già dạy kinh Koran. Ông nằm đây 9 tháng nay, nhưng chúng tôi không làm gì được cho ông. Cả thuốc chích, thuốc uống lẫn việc cho ăn. Cho uống thuốc thì ông nôn ra. Chúng tôi không biết phải làm gì với ông?”
Ông bác sĩ ở bệnh viện Muhimbili lấy ống nghe và khám bệnh kỹ lưỡng cho tôi. Nhưng ông cũng chẳng tìm thấy gì – không có bệnh gì cả. Sau khi khám hết mọi thứ xong, ông nắm lấy bàn tay tôi và nắm thật chặt, đến nỗi tôi bất tỉnh và sau đó khi tỉnh lại, tôi nghe ông nói: “Sao các vị để cho ông nằm đây? Con người nầy đã kết thúc cuộc đời mình rồi.” Sau những lời nầy, họ để tôi một mình và chẳng ngó ngàng gì tới tôi nữa cho đến sáng hôm sau. Vào buổi sáng có những thầy giáo kinh Koran đồng nghiệp của tôi đến thăm tôi và các bác sĩ bảo họ: “Các ông hãy đem ông đi, đưa ông về nhà, nhưng phải hết sức cẩn thận, để ông đừng chết dọc đường. “Sau đó, họ hết sức thận trọng đưa tôi về nhà. Ở nhà, họ đặt tôi lên giường. Tình trạng của tôi không thay đổi chút nào. Tôi phải nằm và cứ 25 phút, có người tới xoay trở tôi.
Một đêm nọ, khoảng độ nửa đêm, bỗng dưng tôi nhìn thấy một ánh sáng rực rỡ. Thật ra là mắt tôi chẳng còn nhìn thấy gì được nữa, tôi chỉ còn phân biệt được sáng và tối chút đỉnh. Dầu vậy, tôi biết chắc là có một ánh sáng mà tôi nhìn thấy được và từ trong một góc phòng tôi nghe có ai gọi tên mình. Tôi nghe tiếng gọi: “Yusuf.” Nhưng không thể đáp lời vì miệng bị khóa chặt. Rồi tôi lại nghe tiếng gọi lần nữa: “Yusuf.” Bỗng dưng lưỡi tôi rời ra và tôi kêu lên: “Rebekka” (tên người vợ quá cố, mà ông tưởng là đã hiện về). Sau khi tôi kêu tên Rebekka, tiếng nói ấy lại vang lên lần nữa, hỏi tôi: “Con bao nhiêu tuổi rồi?” Lúc đó tôi 82 tuổi và tôi nói: “Con 82 tuổi.” Thì Ngài nói: “Thế thì tại sao ta không thấy con, không tìm ra con.” Sau khi Ngài nói Ta không tìm ra con, thì tôi im lặng. Tiếng nói lại hỏi tôi: “Con được bao nhiêu tuổi?” Sau khi tôi trả lời, tiếng nói ấy lại vang lên: “Nhưng không có. Trước mắt Ta, Ta chẳng thấy con đâu cả.” Và rồi tất cả lập lại lần thứ 3 và sự hiện thấy qua đi.
Trong niềm tin của Hồi Giáo, chúng tôi nghĩ ngay đến Sa-tăng và tôi nghĩ thầm: “Thôi đúng là Sa-tăng đã đến rồi. Chắc chắn người hiện đến cùng tôi, đó là Sa-tăng. “
(Còn tiếp)
Dịch: Alice Hoàng Ái
Nguồn: Wertewelt.wordpress.com
PALU, Indonesia – Vào ngày 28 tháng 9, cùng thời điểm với trận động đất cực kì dữ dội tại Indonesia, một chiếc máy bay đã hạ cánh thần kì, gần như tránh được chấn động. Phi công người Indo làm chứng về mối quan hệ của mình với Chúa đã giúp ông nghe được chỉ dẫn từ Chúa đã cứu được 148 hành khách.
Phi Công Ricoseta Mafella, một Cơ đốc nhân tin kính, chia sẻ với CBN News ông thường nhẩm các bài hát thờ phượng trong lúc lái máy bay. Nhưng khoảnh khắc trước trận động đất và song thần đổ bộ vào Indonesia tháng trước, ông cảm thấy thôi thúc ca ngợi lớn tiếng. Ông nói: “Chúa dường như Ngài đang nói, ‘Hãy ca ngợi và thờ phượng Ta’”
Cơ trưởng Mafella nói ông chẳng nhìn thấy gì không bình thường khi ông tiếp đất ở Palu ngày đó ngoài những cơn gió mạnh nhưng đã thúc đẩy ông đưa ra một quyết định khác biệt là quay đầu trước khi hạ cánh. Sự chậm trễ đã khiến cho việc hạ cánh trễ 9 phút.
Sau đó, khi hành khách đã khởi hành và Mafella phải chuẩn bị cho chuyến bay tiếp theo, ông nói ông đã nghe có tiếng hướng dẫn ông, “Nhanh lên, rời khỏi chỗ này, xuất phát mau”
Cơ trưởng Mafella tự hỏi rằng đó có phải là trí tưởng tượng của mình không hay điều gì. Bất kể là gì, ông nghe theo những gì mình nghe được và cất cánh 3 phút sớm hơn dự định. Quyết định đó đã cứu sống nhiều mạng người.
Cơ trưởng Mafella bất ngờ khi xâu chuỗi các sự kiện.
Ông kể lại, “ Trận động đất bắt đầu tại Donggala thừ 17;55… 5:55 tối. tôi khởi cánh lúc 5:52. Tại độ cao 7.7 và 7.4 so với lúc cất cánh!”
Ba phút này rất quan trọng bởi vì máy bay của cơ trưởng Mafella đã cất cánh an toàn, tòa kiểm sát bắt đầu sập ngã vì trận động đất mạnh. Ông rất biết ơn đến người điều phối hàng không Anthonius Agung đã cho ông cất cánh suôn sẻ trước khi tòa tháp sập đổ. Agung sau đó bị mắt kẹt và bắt buộc phải nhảy khỏi tòa tháp từ tầng 4. Ông là anh hùng. Thât không may, ông đã mất vì chấn thương nặng.
Ngay lúc đó, Cơ trưởng Mafella và hành khách không biết gì về những gì xảy ra bên dưới mình. Sau đó, ông nhận ra điện thoại của mình đã chụp được cảnh các cơn sóng đang bắt đầu hình thành sóng thần tấn công miền trung Sulawesi.
Ông cũng miêu tả máy bay may thay đã thoát khỏi sự hủy diệt bới chấn động mạnh trong gang tấc như thế nào. Ông chia sẻ, “Đường băng bị nứt ra 2 mét. Phía sau đường băng là nước, xảy ra ngay khi giờ xuất phát!”
Cơ trưởng Mafella vui mừng vì ông đã lắng nghe và vâng lời.
“Cảm tạ Chúa rất nhiều! Ngài bày tỏ mọi điều – Nếu Ngài chậm 1 hay 2 giây, điều đó sẽ là thảm họa. Tôi không cần chứng mình sự thật là Chúa là có thật. Chúa luôn hiện hữu! Tôi đã thấy và đó là quá đủ đối với tôi.”
Dịch: Trường Vinh
Nguồn: Cbn.com
Trong bài đăng trên Facebook gần đây, nhà truyền giáo Franklin Graham đã chia sẻ về sự đáp ứng với sứ điệp phúc âm của Chúa Giê-xu Christ trong một cuộc phục hưng được tổ chức vào cuối tuần tại Monterrey, Mexico.
Graham đã đăng hình khán phòng được lấp đầy bởi 16.000 người đến nghe Phúc Âm.
“Chúng tôi ca ngợi Chúa khi hàng trăm người đã nhận lời mời quay khỏi tội lỗi và tin Giê-xu Christ là Đấng cứu chuộc và là Đấng tể trị tại Monterrey, Mexico. Tôi nói với toàn thể mọi người tại nhà thi đấu Monterrey rằng không có gì quý giá hơn linh hồn. Linh hồn bạn đang trú ngụ trong cơ thể đó, và khi cơ thể qua đi, linh hồn sẽ sống đời đời ở 1 trong 2 nơi – Thiên đàng hoặc Địa ngục. Đích đến của linh hồn bạn phụ thuộc vào sự chấp nhận hay từ chối Đấng Christ trong cuộc đời này. Đó là một quyết định quan trọng nhất bạn từng có. Kinh Thánh có chép rằng, ‘Một người được cả thế gian mà mất linh hồn mình thì được ích gì?’ (Mác 8:36). Tôi cảm tạ Chúa bởi năng quyền của Phúc Âm mà nhiều linh hồn đã được cứu trong buổi tối hôm nay,” nhà truyền giáo đã viết.
“Hơn 500 hội thánh đã cầu nguyện và tham gia tại lễ hội Esperanza – Tôi biết ơn mỗi người trong anh chị em, tôi đang rất nóng lòng để trở lại Mexico,” Graham tiếp tục.