Phần XII Không Bị Xoá Sổ Khỏi Bản Đồ
“PHÉP LẠ”, Chúa đã chiến đấu cho dân sự của Ngài, như trong thời Cựu Ước!
Năm 1948, nhà nước Y-sơ-ra-ên mới ra đời ngay lập tức bị tấn công bởi các quốc gia Ả Rập xung quanh. Quân lực của chúng, được sự giúp đỡ của Bộ Chỉ Huy Tối Cao Anh, bao gồm
– 4000 lính trong quân đội của Bắc Palestine, Syria và Iraq;
– 4000 lính đánh thuê và người Bedouin (người du cư) trong một đội quân từ Đông Palestine được tuyển mộ ở Trans-Jordan dưới sự giám sát của quân đội Anh;
– 3000 lính trong đội quân từ Tây Palestine đã chiếm đóng Tel-Aviv và con đường dẫn tới Giê-ru-sa-lem;
– 10.000 lính tinh nhuệ và được trang bị tốt trong quân đội Ai Cập ở phía nam.
Khi Y-sơ-ra-ên được thành lập, dưới con mắt của quân lính Anh, những đội quân này đã kiểm soát con đường quan trọng Haifa-Tel Aviv, cô lập các khu định cư ở Negev. Họ cô lập hoàn toàn người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem và khu định cư ở phía nam gần Bết-lê-hem. Họ đang ở trong một vị trí để tấn công Tel-Aviv và cắt đứt các con đường tới Giê-ru-sa-lem cũng như khu định cư ở phía nam. Khi người Anh trao lại quyền ủy trị ở Palestine, họ đã rời bỏ các đồn bốt quân sự của mình và giao lại, thường là tất cả vũ khí của họ, cho người Ả Rập. Tình hình của người Do Thái dường như tuyệt vọng.
Liên đoàn Ả Rập ra lệnh cho những người Ả Rập địa phương rời khỏi Y-sơ-ra-ên trong khi họ đang nhanh chóng kết liễu người Do Thái. “Trong hai tuần nữa mọi người sẽ có thể trở về, vì lúc đó tất cả người Do Thái đã chết và mọi thứ sẽ thuộc về mọi người.” Họ đã được cảnh báo: “Nếu mọi người vẫn ở đó với tư cách là những người Ả Rập, mọi người có thể bị giết.” Lệnh này là khởi đầu cho cuộc khủng hoảng tị nạn của người Palestine. Người Do Thái không tạo ra cuộc khủng hoảng đó mà chính người Ả Rập mới là nguyên nhân. Trên thực tế, nhà nước Do Thái đã không bị xóa sổ khỏi bản đồ trong hai tuần.
Dường như không thể tin được, một quốc gia 600.000 người Do Thái lại có thể sống sót sau một cuộc tấn công do các thủ lĩnh của 45 triệu kẻ thù bao vây họ. Mọi người đều biết đó chỉ có thể là “phép lạ”. Chúa đã chiến đấu cho dân sự của Ngài, như trong thời Cựu Ước.
Chiến tranh
Chúng ta sẽ không đi vào chi tiết về các sự kiện năm 1956, là khi mà ngay sau việc quốc hữu hóa kênh đào Suez, Tổng thống Nasser của Ai Cập tuyên bố rằng ông sẵn sàng đối phó với “vấn đề Do Thái” một lần và mãi mãi. Y-sơ-ra-ên trả đũa, vượt qua sa mạc Sinai, và chẳng mấy chốc đã đứng ở rìa kênh đào Suez. Trong hành lý của những người lính Ả Rập bị bắt làm tù binh, họ tìm thấy hàng chục bản sao của ‘Mein Kampf’ được dịch sang tiếng Ả Rập.
Từ năm 1949 đến năm 1956, hiệp định đình chiến vũ trang giữa Y-sơ-ra-ên và Ả Rập, được thực thi một phần bởi lực lượng Liên Hợp Quốc, đã bị phá vỡ bởi các cuộc tấn công và trả đũa. Trong số các cường quốc trên thế giới, Hoa Kỳ, Anh và Pháp đứng về phía Y-sơ-ra-ên, trong khi Liên Xô Sup ủng hộ các yêu cầu của Ả Rập. Căng thẳng gia tăng trong năm 1956, khi Y-sơ-ra-ên tin rằng người Ả Rập đang chuẩn bị cho chiến tranh. Việc kênh đào Suez bị quốc hữu hóa dần dẫn đến việc Anh và Pháp ngày càng bất bình, từ đó thúc đẩy họ thực hiện các thỏa thuận mới với Y-sơ-ra-ên.
Vào ngày 29 tháng 10 năm 1956, lực lượng Y-sơ-ra-ên, do Moshe Dayan chỉ đạo, đã tiến hành một cuộc tấn công tổng hợp trên không và trên bộ vào bán đảo Sinai của Ai Cập. Những thành công ban đầu của Y-sơ-ra-ên được củng cố bởi một cuộc xâm lược của Anh-Pháp dọc theo kênh đào. Mặc dù hành động chống lại Ai Cập đã bị các quốc gia trên thế giới lên án gay gắt, lệnh ngừng bắn vào ngày 6 tháng 11, được Liên hợp quốc thúc đẩy với sự hỗ trợ của Mỹ và Liên Xô, chỉ diễn ra sau khi Y-sơ-ra-ên chiếm được một số mục tiêu quan trọng, bao gồm cả dải Gaza và Sharm el Sheikh. Nơi cuối cùng này chỉ huy các cuộc tiếp cận đến Vịnh Aqaba, nơi nối liền Y-sơ-ra-ên với Ấn Độ Dương. Y-sơ-ra-ên đã rút quân khỏi các vị trí này vào năm 1957, chuyển giao cho lực lượng khẩn cấp của LHQ sau khi việc tiếp cận Aqaba được đảm bảo. Chúng ta có thể tham khảo thêm tại “Các cuộc chiến giữa Ả Rập – Y-sơ-ra-ên: Cuộc chiến năm 1956” tại Infoplease.com
Sau một thời gian tương đối bình lặng, các sự cố biên giới giữa Y-sơ-ra-ên và các nước láng giềng, Syria, Ai Cập và Jordan gia tăng trong đầu những năm 1960, bởi các nhóm du kích Palestine được Syria hỗ trợ tích cực.
Vào tháng 5 năm 1967, Tổng thống Nasser, sự tín nhiệm của ông vốn đã giảm sút nghiêm trọng do không hành động trước các cuộc tấn công của Y-sơ-ra-ên, đã yêu cầu các lực lượng Liên hợp quốc rút khỏi lãnh thổ Ai Cập, huy động các đơn vị ở Sinai và đóng cửa Vịnh Aqaba. Y-sơ-ra-ên, quốc gia không có lực lượng Liên Hợp Quốc đóng quân trên lãnh thổ của mình, đã phản ứng bằng cách tự huy động. Đúng vào dịp kỷ niệm 19 năm ngày độc lập của Y-sơ-ra-ên, Nasser đưa xe tăng vào Sinai và đe dọa sử dụng không quân để ném bom các thành phố Do Thái. Lực lượng không quân Y-sơ-ra-ên đã tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ táo bạo tiêu diệt toàn bộ lực lượng không quân Ai Cập ngay trên đường băng. Jordan bị đánh bại, và Bờ Tây sông Jordan và Đông Giê-ru-sa-lem, bị chiếm đóng từ năm 1948, được trả lại cho Y-sơ-ra-ên. Sau 19 năm bị Jordan chiếm đóng, thành phố Giê-ru-sa-lem bị chia cắt một lần nữa là thủ đô không bị chia cắt của Y-sơ-ra-ên, Nhà nước Do Thái.
Sự leo thang của các mối đe dọa và khiêu khích vẫn cứ tiếp tục cho đến tháng 6 năm 1967, khi Y-sơ-ra-ên tiến hành một cuộc không kích quy mô lớn làm tê liệt khả năng không quân của Ả Rập. Với ưu thế trên không giúp bảo vệ các lực lượng mặt đất của mình, Y-sơ-ra-ên đã kiểm soát bán đảo Sinai trong vòng ba ngày và sau đó tập trung vào biên giới Jordan, chiếm Thành cổ Giê-ru-sa-lem (được sáp nhập sau đó), và ở biên giới Syria giành được vùng chiến lược Cao nguyên Golan. Cuộc chiến kết thúc vào ngày 10 tháng 6, được gọi là Cuộc Chiến Sáu Ngày.
Kênh đào Suez đã bị đóng cửa bởi chiến tranh và Y-sơ-ra-ên tuyên bố rằng họ sẽ không từ bỏ Giê-ru-sa-lem và sẽ giữ các vùng lãnh thổ chiếm được khác cho đến khi đạt được tiến bộ đáng kể trong quan hệ Ả Rập – Y-sơ-ra-ên. Kết thúc của các cuộc giao tranh máu lửa, triền miên được theo sau bởi các cuộc đọ súng thường xuyên dọc theo biên giới và các cuộc đụng độ giữa người Y-sơ-ra-ên và du kích Palestine. Bạn có thể đọc thêm tại “Các Cuộc Chiến Tranh Ả Rập – Y-sơ-ra-ên: Cuộc Chiến Năm 1967 (Cuộc Chiến Sáu Ngày)” tại Infoplease.com.
Năm 1973, vào Ngày Lễ Chuộc Tội, ngày thánh lễ thiêng nhất trong lịch Do Thái, Syria và Ai Cập đồng loạt tấn công. Y-sơ-ra-ên chịu tổn thất lớn, nhưng đã giành được chiến thắng. Tuy nhiên, cả nước đã bị sốc nặng. Máu Do Thái sẽ phải đổ thêm bao nhiêu nữa trước khi có hòa bình thực sự? Câu trả lời chỉ có thể được đưa ra khi Đấng Mê-si đến, vì chỉ khi đó mới có hòa bình thực sự. Mặc dù tiến trình hòa bình ở Trung Đông đã bắt đầu, nhưng hàng trăm người Do Thái đã bị sát hại bởi những người theo chủ nghĩa Hồi giáo chính thống Ả Rập, và vẫn chưa có dấu hiệu dừng lại.
Còn Giê-ru-sa-lem thì sao? Áp lực chia cắt thành phố để trao cho người Palestine “thủ đô” của riêng họ tiếp tục gia tăng, trong khi giới Cơ đốc giáo thúc đẩy quốc tế hóa Giê-ru-sa-lem. Bạn nghĩ chính phủ Ý sẽ phản ứng như thế nào nếu điều này được đề xuất cho thành phố Rome? Và Hồi giáo cũng sẽ không bao giờ tự nguyện từ bỏ tuyên bố của họ xem Giê-ru-sa-lem là thành phố linh thiêng thứ ba của họ sau Mecca và Medina.
Tôi muốn trích dẫn từ trang web của một tổ chức Do Thái ‘Chabad’: “Vào mùa xuân năm 1967, theo sát một thập kỷ tương đối bình lặng, Y-sơ-ra-ên thấy mình đã sẵn sàng cho cuộc chiến chống lại bốn nước láng giềng Ả Rập. Theo tất cả các nhà phân tích quân sự và chuyên gia, đó là một cuộc chiến không cân sức. Lực lượng Phòng vệ Y-sơ-ra-ên (IDF) bao gồm 275.000 quân, so với 456.000 binh sĩ của quân đội Iraq, Syria, Jordan và Ai Cập kết hợp. Các lực lượng Ả Rập thống nhất cũng có lợi thế quyết định liên quan đến vũ khí và thiết bị quân sự: họ tự hào về số lượng xe tăng nhiều hơn gấp đôi, và gần gấp bốn lần số máy bay chiến đấu. Khoảng thời gian ba tuần trước cuộc Chiến Tranh Sáu Ngày là một khoảng thời gian kinh hoàng, sốc và sợ hãi đối với cư dân của vùng Đất Thánh.
Với gần hai triệu rưỡi người Do Thái sống ở đất nước nhỏ bé này, nơi đây có mật độ người Do Thái tập trung cao nhất kể từ thời kỳ tiền Holocaust ở Đông Âu. Sự bi quan thể hiện rõ đến mức các nghĩa trang và công viên quốc gia của quốc gia đã được đánh dấu là sẽ trở thành mồ chôn cho nhiều người mà chắc chắn sẽ thiệt mạng trong chiến tranh. Tuy nhiên, bất chấp tất cả những tiên lượng, vào thời điểm chiến tranh kết thúc, vùng lãnh thổ ở dưới sự kiểm soát của Y-sơ-ra-ên đã tăng gấp ba lần. Người Do Thái quay trở lại các địa điểm mà tổ tiên của họ đã sống hàng ngàn năm, các địa điểm mà từ đó làn sóng khủng bố đã được phát động chống lại họ trong rất nhiều năm. Thương vong và mất mát là rất đau đớn, nhưng rất ít so với tất cả các dự báo. Đất nước Do Thái đã chiến thắng một cách thần kỳ trước những khó khăn không tưởng.
Những trang sử thường nói về “Cuộc Chiến Trăm Năm”, “Cuộc Chiến Ba Mươi Năm” và nhiều trận chiến trường kỳ khác. Ở đây, chỉ trong vòng sáu ngày ngắn ngủi, một quốc gia đã đánh bại hoàn toàn không phải một, mà là bốn kẻ thù hùng mạnh! Người Do Thái trên toàn cầu đã tạ ơn Đức Chúa Trời vì những điều kỳ diệu đã xảy ra. Một cảm giác tự hào đáng kinh ngạc và sự thức tỉnh thuộc linh đã bao trùm người Do Thái trên toàn thế giới. ” Đọc thêm tại www.chabad.org
(Còn tiếp…)
Giáo sĩ Willem J. J. Glashouwer
Chủ tịch Cơ Đốc Nhân vì Israel Quốc tế
Chủ tịch danh dự Liên Minh Châu Âu vì Israel
Biên Dịch Cơ Đốc Nhân Vì Israel Quốc Tế
Israel
Những Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh Được Ứng Nghiệm Bởi Israel – Phần 2 và hết
5. Dân Y-Sơ-Ra-Ên Sẽ Không Bao Giờ Hoàn Toàn Bị Tiêu Diệt
Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh: Lê-vi Ký 26:44
Lời Tiên Tri Được Viết: Khoảng năm 1400 trước Công Nguyên
Lời Tiên Tri Được Ứng Nghiệm: Xuyên suốt lịch sử
Trong Lê-vi Ký 26:44, Kinh Thánh nói rằng Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ để cho dân Y-sơ-ra-ên bị tiêu diệt hoàn toàn.
Vào thời cổ đại, 10 trong số 12 chi phái của Y-sơ-ra-ên đã bị tiêu diệt bởi người A-si-ri. Và người Ba-by-lôn sau đó đã bức hại những gì còn lại của người Y-sơ-ra-ên. Nhưng, thay vì đồng hóa hoặc hư mất, một số người cuối cùng đã hồi hương và phục hồi lối sống của riêng họ.
Sự hồi phục đã rất trọn vẹn, đủ để Giê-ru-sa-lem được phục hồi trở thành trung tâm của đời sống Do Thái. Và những môn đồ của Chúa Giê-xu đã có thể bắt đầu một tiến trình tại Giê-ru-sa-lem mà nhờ đó niềm tin Cơ Đốc được rao giảng khắp thế giới.
Lê-vi Ký 26:44 “Dẫu vậy, đương khi họ bị ở trong xứ kẻ thù nghịch mình, ta cũng chẳng bỏ họ đâu, chẳng ghê gớm họ đến phải hao mòn hết, và chẳng bội sự giao ước ta lập cùng họ đâu, vì ta là Giê-hô-va, Ðức Chúa Trời của họ.”
6. Đức Chúa Trời Hứa Sẽ Phục Hồi Người Do Thái
Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh: Ê-sai 27:12-13
Lời Tiên Tri Được Viết: Vào khoảng năm 701-681 trước Công Nguyên
Lời Tiên Tri Được Ứng Nghiệm: Khoảng 2600 năm trước
Trong Ê-sai 27:12-13, lời tiên tri nói rằng những người Do Thái lưu vong sẽ trở về quê hương của họ. Trong thời đại Ê-sai, khoảng 2700 năm trước, người A-si-ri đã chinh phục miền bắc của đất nước Do Thái và buộc nhiều người Do Thái phải sống lưu vong. Vài trăm năm sau, người Ba-by-lôn đã làm tương tự với phần phía nam của quê hương. Nhiều người Do Thái đã hồi hương trong nhiều thế kỷ sau đó. Họ tái xây dựng Đền Thờ và thờ phượng tại Đền Thờ.
Nhưng, vào năm 70 sau Công Nguyên và năm 135 sau Công Nguyên, người La Mã đã đàn áp hai cuộc nổi dậy bởi những người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem, những người đã chiến đấu, và không thành công, để giành độc lập khỏi Đế quốc La Mã. Sau mỗi cuộc nổi dậy, người La Mã đã lưu đày hàng trăm ngàn người Do Thái. Sau cuộc nổi dậy thứ hai, người La Mã tạm thời cấm người Do Thái sống ở Giê-ru-sa-lem. Nhưng người Do Thái đã hồi hương với số lượng lớn kể từ cuối những năm 1800.
Ê-sai 27:12-13 “Xảy ra trong ngày đó, Ðức Giê-hô-va sẽ lung lay từ lòng Sông cái cho đến khe Ê-díp-tô; hỡi con cái Y-sơ-ra-ên, các ngươi đều sẽ bị lượm từng người một! Trong ngày đó, kèn lớn sẽ thổi lên. Bấy giờ những kẻ bị thất lạc trong xứ A-si-ri, và những kẻ bị đày trong đất Ê-díp-tô, sẽ đến thờ lạy trước mặt Ðức Giê-hô-va, trên hòn núi thánh, tại Giê-ru-sa-lem.”
7. Kẻ thù sẽ tiến vào vùng đất của người Y-sơ-ra-ên
Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh: Lê-vi Ký 26:32-33
Lời Tiên Tri Được Viết: Khoảng năm 1400 trước Công Nguyên
Lời Tiên Tri Được Ứng Nghiệm: Khoảng đầu năm 721 trước Công Nguyên
Trong Lê-vi Ký 26:32-33, cũng như các lời tiên tri khác của Kinh Thánh, chúng ta biết rằng người dân Y-sơ-ra-ên sẽ bị sát hại tại các quốc gia mà họ bị đuổi đến trong thời gian lưu vong, và miền đất Y-sơ-ra-ên sẽ trở thành tàn tích.
Ở đây, mặc dù vậy, chúng ta cũng biết rằng kẻ thù sẽ cư trú tại vùng đất Y-sơ-ra-ên trong suốt và sau thời gian lưu vong (Lê-vi Ký 26:32).
Sự ứng nghiệm lời tiên tri này đã bắt đầu khoảng 2500 năm trước khi người Do Thái hồi hương sau khi bị lưu đày bởi người Ba-by-lôn.
Như được giải thích trong sách Nê-hê-mi của Kinh Thánh, những người Do Thái hồi hương đã gặp phải sự thù địch từ những dân ngoại đang cư trú trong và xung quanh Giê-ru-sa-lem. Trong các chương đầu của sách Nê-hê-mi, dân ngoại bang đã chế nhạo người Do Thái khi họ tìm cách tái xây dựng Giê-ru-sa-lem, vốn đã bị người Ba-by-lôn phá hủy trước đó.
Nê-hê-mi đương đầu với dân ngoại, nói với họ rằng người Do Thái sẽ thành công trong việc tái thiết thành phố đã sụp đổ của họ:
“Tôi bèn đáp với chúng nó rằng: Ðức Chúa của các từng trời sẽ ban cho chúng ta sự hanh thông; vì vậy, chúng ta, là tôi tớ Ngài, sẽ chổi dậy và xây sửa lại; nhưng các ngươi không có phần, hoặc phép, hoặc kỷ niệm trong Giê-ra-sa-lem. Sửa các vách thành Giê-ru-sa-lem lại.” (Nê-hê-mi 2:20)
Nê-hê-mi đã nỗ lực xây dựng lại các bức tường xung quanh Giê-ru-sa-lem và dự án được hoàn thành trong 52 ngày, như được giải thích trong Nê-hê-mi 6:15-16.
Trong khi Lê-vi Ký 26:32-33 nói về sự trừng phạt qua việc bị lưu đày và hủy diệt, những câu khác trong chương 26 của Lê-vi-ký nói về sự tha thứ và phục hồi. Nê-hê-mi đóng một vai trò quan trọng trong việc khôi phục đất đai và dân Y-sơ-ra-ên sau sự sụp đổ của Đế chế Ba-by-lôn.
Lê-vi Ký 26:32-33 “Ta sẽ làm xứ ra đồi bại, đến nỗi kẻ thù nghịch ở tại đó cũng lấy làm lạ. Ta sẽ tản lạc các ngươi trong các dân và rút gươm ra đuổi theo sau các ngươi: xứ các ngươi sẽ hoang vu, thành sẽ vắng vẻ.”
8. Người Do Thái sẽ sống sót suốt thời Ba-by-lôn trị vì và hồi hương
Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh: Giê-rê-mi 32:36-37
Lời Tiên Tri Được Viết: Vào khoảng giữa năm 626-586 trước Công Nguyên
Lời Tiên Tri Được Ứng Nghiệm: năm 536 trước Công Nguyên
Giê-rê-mi là một trong những vị tiên tri cảnh báo dân Giu-đa rằng họ sẽ bị những người Ba-by-lôn lưu đày. Trong Giê-rê-mi 32:36-37, ông tiên tri cho dân chúng rằng họ sẽ sống sót sau sự lưu đày tại Ba-by-lôn và hồi hương.
Ba-by-lôn đã đánh bại quân A-si-ri trong một trận chiến quyết định, kết thúc vào năm 612 trước Công Nguyên, tại Ni-ni-ve. Và sau đó, vào năm 609 trước Công Nguyên, người Ba-by-lôn đã chiến thắng vị vua A-si-ri cuối cùng. Người A-si-ri có một đế chế bao gồm cả vùng đất của Giu-đa nhưng bây giờ người Ba-by-lôn đã chiếm quyền kiểm soát đế quốc.
Trong một nỗ lực để người dân Giu-đa thấy rằng Ba-by-lôn giờ đây là chủ nhân mới, họ đã bắt đầu một quá trình buộc những cư dân chủ chốt phải sống lưu vong, sớm nhất là năm 605 trước Công Nguyên. Nhiều vụ trục xuất xảy ra trong những năm sau đó, lên đến đỉnh điểm với sự hủy diệt toàn bộ Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ vào năm 586 trước Công Nguyên.
Người Do Thái bắt đầu trở về quê hương của họ sau khi Đế quốc Ba-by-lôn bị lật đổ vào năm 539 trước Công Nguyên, bởi một liên minh của người Mê-đi và Ba Tư.
Giê-rê-mi 32:36-37 “Nên bấy giờ, về thành nầy, mà các ngươi nói rằng nó đã phó trong tay vua Ba-by-lôn bởi gươm dao, đói kém, ôn dịch, thì Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nầy, ta sẽ thâu nhóm chúng nó từ mọi nước mà ta đã nhơn giận, thạnh nộ, tức mình quá mà đuổi chúng nó đến; ta sẽ đem chúng nó về trong chỗ nầy, khiến chúng nó ở yên ổn.”
9. Người dân Y-sơ-ra-ên sẽ trở lại vùng đất của họ
Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh: Ê-xê-chi-ên 34:13
Lời Tiên Tri Được Viết: Vào khoảng năm 593-571 trước Công Nguyên
Lời Tiên Tri Được Ứng Nghiệm: Khoảng 2600 năm trước
Giống như Giê-rê-mi, vị tiên tri Ê-xê-chi-ên cũng sống trong thời gian người Ba-by-lôn cai trị dân Giu-đa, và ông cũng là một trong những người Do Thái bị đưa đến Ba-by-lôn làm tù nhân. Trong Ê-xê-chi-ên 34:13, ông đã tiên tri rằng Đức Chúa Trời sẽ tập hợp những người lưu vong từ các quốc gia khác nhau, nơi họ bị phân tán ra và rằng Ngài sẽ phục hồi họ trở thành “đất riêng chúng nó“.
Ê-xê-chi-ên 34:13 “Ta sẽ đem chúng nó ra khỏi giữa các dân; ta sẽ nhóm chúng nó lại từ các nước, và đem chúng nó về trong đất riêng chúng nó. Ta sẽ chăn chúng nó trên các núi của Y-sơ-ra-ên, kề khe nước, và trong mọi nơi có dân cư trong nước.”
(Hết)
Dịch: Sophie Nguyễn Thu Vịnh
Nguồn: 100prophecies.org
Ảnh: Sưu tầm
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Những Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh Được Ứng Nghiệm Bởi Israel – Phần 1
Phần XI Giê-ru-sa-lem – Vẫn Chưa?
Đây là điều đáng chú ý. Mặc dù dân Y-sơ-ra-ên đã chinh phục vùng Đất Hứa và phân chia nó cho mười hai chi phái, nhưng họ vẫn chưa giành được Giê-ru-sa-lem! Chúng ta phải đợi cho đến khi Đa-vít trở thành vua Y-sơ-ra-ên, sau cái chết của Sau-lơ.
Trong II Sa-mu-ên 5:6-10 và I Sử-ký 11:4-9, chúng ta thấy cuối cùng thì người Giê-bu-sít cũng đã bị khuất phục. “Vua [Đa-vít] và các thuộc hạ tiến đến Giê-ru-sa-lem, đánh người Giê-bu-sít, là dân bản xứ. Chúng (dân Giê-bu-sít, có lẽ là vẫn rất tự tin) nói với Đa-vít: “Ông sẽ không vào đây được đâu, những người mù và què cũng đủ sức đánh đuổi ông!” Chúng nghĩ: “Đa-vít sẽ không thể vào đây được.” Nhưng Đa-vít đã chiếm lấy đồn lũy Si-ôn, đó là thành Đa-vít…” Ông theo đường hầm để xuống lấy nước mà đánh chúng. “…Đa-vít bắt đầu trị vì lúc ba mươi tuổi, và làm vua được bốn mươi năm. Tại Hếp-rôn, Đa-vít trị vì trên Giu-đa bảy năm sáu tháng; rồi tại Giê-ru-sa-lem, ông trị vì trên cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa ba mươi ba năm…” (II Sa-mu-ên 5:4-5)
Ở đây chúng ta nhìn thấy một sự tương đồng nổi bật với tình hình hiện tại của Y-sơ-ra-ên. Ngay cả khi đã có Nhà nước Y-sơ-ra-ên độc lập, vị thế của Giê-ru-sa-lem vẫn bị tranh chấp gay gắt. Có những tuyên bố từ người Palestine, từ giới Hồi giáo Ả Rập vì họ xem Giê-ru-sa-lem là thành thánh thứ ba của họ. Còn đối với Giáo hoàng, ông muốn ‘quốc tế hóa’ Giê-ru-sa-lem như một Thành phố Thánh cho Cơ Đốc giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo. Trong khi đó, Liên Hợp Quốc không chấp nhận quyết định của Y-sơ-ra-ên sau cuộc Chiến tranh Sáu Ngày vào năm 1967, là biến Giê-ru-sa-lem trở thành thủ đô không bị chia cắt của Nhà nước Do Thái độc lập của Y-sơ-ra-ên! Như vậy, chúng ta cũng nhận thấy đã gần 70 năm trôi qua giữa cuộc “chinh phục” vùng đất và số phận cuối cùng của Giê-ru-sa-lem ở giữa Y-sơ-ra-ên!
Vùng Đất Hứa ngày nay
Vào ngày 14 tháng 5 năm 1948, David Ben-Gurion tuyên bố thành lập nhà nước Y-sơ-ra-ên. Trước đó vào ngày 29 tháng 11 năm 1947, Liên hợp quốc đã thông qua kế hoạch phân chia Palestine. Ngay sau khi đề xuất đó được công bố, các quốc gia Ả Rập hùng mạnh xung quanh đã lao vào một cuộc chiến dữ dội để xua đuổi người Do Thái xuống biển, và bóp chết nhà nước Do Thái từ trong trứng nước. Mặc dù bị tổn thất nặng nề, người Do Thái đã thắng thế. Cuộc xung đột đẫm máu này cùng với sự phản đối của Anh quốc đối với kế hoạch, được sự hỗ trợ và tiếp tay từ người Ả Rập, khiến Liên Hợp Quốc đề xuất giải tán kế hoạch phân vùng. Nhưng trong vòng sáu tháng trước khi kế hoạch bị thu hồi, David Ben-Gurion đã tuyên bố thành lập Nhà nước Do Thái độc lập. Những người lính Anh cuối cùng đã rời khỏi đất nước vào ngày hôm sau, cùng ngày mà bảy quốc gia Ả Rập tấn công Y-sơ-ra-ên. Bởi một phép màu thiên thượng, Y-sơ-ra-ên đã chiếm ưu thế trong trận chiến không cân sức này và do đó vào đầu năm 1949, một hiệp định đình chiến đã được tuyên bố. Tuy nhiên, vào thời điểm đó Ai Cập đã chinh phục dải Gaza, còn Jordan đã chiếm Bờ Tây và Đông Giê-ru-sa-lem. Do đó họ đã từ chối thay thế hiệp định đình chiến bằng một hiệp ước hòa bình.
Sự chống đối của người Anh
Vai trò của Anh quốc trong tất cả những cuộc chiến này là không rõ ràng và thường là công khai chống lại người Do Thái. Vì sự tín nhiệm của Anh quốc, phải nói rằng nhờ đó mà tuyên bố Balfour năm 1917 được thông qua, trong đó thừa nhận quyền của người Do Thái đối với “ngôi nhà dân tộc” ở Palestine. Tuyên bố này (ngày 2 tháng 11 năm 1917) là một lá thư của Bộ trưởng Ngoại giao Vương quốc Anh Arthur James Balfour gửi cho Walter Rothschild, Nam tước Rothschild thứ hai, một nhà lãnh đạo của cộng đồng Do Thái ở Anh, để chuyển đến Liên đoàn Zionist của Vương quốc Anh và Ireland. Nội dung lá thư như sau: “Quan điểm của chính phủ Hoàng gia với việc ủng hộ việc thành lập ở Palestine một nhà dân tộc cho người Do Thái và sẽ tận dụng những nỗ lực của họ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đạt được mục tiêu này, điều đó được hiểu rõ rằng không có điều gì làm thay đổi các quyền dân sự và tôn giáo các cộng đồng không phải Do Thái hiện tại ở Palestine, hoặc các quyền và địa vị chính trị mà người Do Thái ở bất kỳ nước nào khác được hưởng.”
Nhưng khi người Anh nắm vai trò ủy trị Palestine sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, kết thúc bốn trăm năm bị Thổ Nhĩ Kỳ chiếm đóng, người Anh ngày càng ủng hộ người Ả Rập. Quân đội Anh ở Palestine kiếm cớ khiến cho người Ả Rập và người Do Thái gây chiến với nhau. Ngay từ đầu năm 1923, London đã quyết định bí mật sử dụng các phương tiện chính trị và kinh tế để đè bẹp chủ nghĩa Phục quốc của người Do Thái. Vào năm 1922, cao ủy người Anh đầu tiên tại Palestine, Herbert Samuel, đã phê duyệt việc thành lập Trans-Jordan như một khu vực tự trị sẽ không trở thành một phần của quốc gia Do Thái trong tương lai. Việc phân chia đất đai thực ra chỉ được thực hiện vào năm 1928, khiến một phần chính của vùng Đất Hứa trong Kinh thánh chỉ đơn giản là bị chia cắt và trao cho người Ả Rập.
Đầu năm 1919, Đại hội Quốc gia Ả Rập ở Damascus đã biến Syria và Iraq thành hai quốc gia riêng biệt, để bản đồ Trung Đông dần dần tiến đến hình dáng hiện đại của nó. Năm 1945, Liên đoàn Ả Rập được thành lập và Jordan trở thành thành viên. Ngày 22 tháng 3 năm 1946, Anh công nhận Liên đoàn Ả Rập và trao cho Jordan quyền độc lập hoàn toàn. Và sau đó vào năm 1948, Jordan, cùng với quân đội từ Ai Cập, Syria và Iraq, đã tấn công nhà nước mới thành lập Y-sơ-ra-ên.
Y-sơ-ra-ên đã trở lại vũ đài thế giới, nhưng những kẻ thù của Y-sơ-ra-ên cũng vậy. Vai trò của nước Anh ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai là một sự thật đau đớn khi nhắc lại. Thậm chí là trước chiến tranh, các nhà hội Do Thái đã bị thiêu rụi ở các thành phố trên khắp nước Đức; chúng bị đốt bởi Đức quốc xã và những người dân Đức quá khích. Các báo cáo ban đầu về sự tồn tại của các trại tập trung cũng bắt đầu được tiết lộ. Bất cứ ai đã đọc cuốn sách ‘Mein Kampf’ (Cuộc Tranh Đấu Của Tôi) của Hitler đều có thể nhận ra điều gì sắp xảy đến với người Do Thái.
Tuy nhiên, đến ngày 17 tháng 5 năm 1939, London quyết định hạn chế số người Do Thái nhập cư đến Palestine xuống còn 75.000 người. Cao ủy đã được hướng dẫn để ngăn chặn tất cả việc thu hồi đất đai của người Do Thái, và một kế hoạch đã được vạch ra cho một chính quyền độc lập trong vòng mười năm. Kế hoạch này sẽ đảm bảo rằng người Do Thái sẽ mãi là một dân tộc thiểu số ở Palestine, ngôi nhà dân tộc Do Thái tương lai của họ. Một người Anh đã viết: “Trong khi ở dưới chế độ ác quỷ của Goebbels, nửa triệu người Do Thái bị ngược đãi, nhiều người bị chết đói hoặc cận kề cái chết, không cửa nhà, không việc làm, không hy vọng, và đang cố gắng trốn sang Palestine, chính phủ của chúng ta chỉ đơn giản coi họ như là ‘những người nhập cư bất hợp pháp’.”
Anh duy trì chính sách này trong suốt cuộc chiến tranh, bất chấp những gì đang xảy ra với người Do Thái dưới chế độ Đức Quốc xã. Ngay cả sau khi Hitler sụp đổ, binh lính Anh vẫn được chỉ đạo để bắn những con người tàn tạ đó, như những bộ xương, những người chỉ mới thoát khỏi các trại tập trung, đang cố gắng chạy đến Palestine. Người Ả Rập ở Palestine vui mừng trước việc Hitler tiêu diệt người Do Thái. Grand Mufti, thủ lĩnh của người Hồi giáo ở Giê-ru-sa-lem, Amin Al-Husseini, là bạn thân của Hitler. Nhưng nước Anh đã chọn chống lưng cho Mufti và người của ông ta, những kẻ thường xuyên sát hại người Do Thái trong các cuộc tàn sát ở Giê-ru-sa-lem và phần còn lại của thế giới Ả Rập, và đi ngược lại lợi ích của người Do Thái. Bất chấp sự tàn khốc của cuộc Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai, người Anh đã buộc những người Do Thái còn sống sót ở lại các trại tập trung, và đánh chìm những chiếc thuyền cố gắng đến bờ biển Palestine một cách bất hợp pháp. Những người Do Thái không bị chết đuối, nhưng bơi được vào bờ, đã bị người Anh một lần nữa bắt đưa vào các trại tập trung mới trên đảo Síp. Còn những người Do Thái yêu nước ở Palestine đã bị treo cổ.
Từ năm 1947 đến tháng 5 năm 1948, hàng trăm người Do Thái bị sát hại trên những con đường và trên các cánh đồng ở Palestine mỗi tháng, nhưng người Anh vẫn không cho phép đưa người Do Thái vào các đoàn xe hộ tống để đảm bảo an toàn. Họ đã làm ngơ trước những kẻ sát nhân Ả Rập.
(Còn tiếp…)
Giáo sĩ Willem J. J. Glashouwer
Chủ tịch Cơ Đốc Nhân vì Israel Quốc tế
Chủ tịch danh dự Liên Minh Châu Âu vì Israel
Biên Dịch Cơ Đốc Nhân Vì Israel Quốc Tế
Những Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh Được Ứng Nghiệm Bởi Israel – Phần 1
Dưới đây là những lời tiên tri được chọn lọc từ Kinh Thánh liên quan đến sự lưu đày, duy trì và tái lập của người Y-sơ-ra-ên trong và sau thời kỳ Đế Chế Tân Ba-by-lôn.
1. Con cháu của Áp-ra-ham sẽ đông như sao trên trời
Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 15:5
Lời Tiên Tri Được Viết: Khoảng năm 1400 trước Công Nguyên
Lời Tiên Tri Được Ứng Nghiệm: Xuyên suốt lịch sử
Trong Sáng Thế Ký 15:5, Kinh Thánh chép rằng Áp-ra-ham sẽ có rất nhiều con cháu và đếm họ sẽ như đếm sao trên trời. Sự ứng nghiệm của lời tiên tri này là hoàn toàn hiển nhiên. Trong thực tế cho thấy lời tiên tri này có thể dễ dàng bị bỏ qua vì:
Áp-ra-ham là người duy nhất được tôn kính bởi nhiều người trên khắp thế giới vì ông là tổ tiên của họ.
Ông là cha của người Do Thái, như đã được giải thích trong sách Sáng Thế Ký, ông là cha của Y-sác, và Y-sác là cha của dân tộc Y-sơ-ra-ên.
Cơ Đốc nhân trở thành con cháu của Ápraham bởi đức tin (Ga-la-ti 3:29), cũng như Áp-ra-ham trở thành cha của nhiều dân tộc cũng bởi đức tin (Sáng thế ký chương 12-17; Rô-ma 4:18).
Và nhiều người Hồi giáo cũng tự xem mình là con cháu của Áp-ra-ham, từ con trai ông là Ích-ma-ên.
Cũng cần lưu ý rằng phần đầu của tên ông, chữ “Áp“, có nghĩa là “cha“, và tên của ông đã được thay đổi bởi Chúa. Lý do cho sự thay đổi được giải thích trong Sáng Thế Ký 17:5 “Thiên hạ chẳng còn gọi ngươi là Áp-ram nữa, nhưng tên ngươi là Áp-ra-ham, vì ta đặt ngươi làm tổ phụ của nhiều dân tộc.”
Sáng Thế Ký 15:5 “Ðoạn, Ngài dẫn người ra ngoài và phán rằng: Ngươi hãy ngó lên trời, và nếu ngươi đếm được các ngôi sao thì hãy đếm đi. Ngài lại phán rằng: Dòng dõi ngươi cũng sẽ như vậy.”
2. Các con cháu của Áp-ra-ham sẽ có đất nước của riêng họ
Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 15:18
Lời Tiên Tri Được Viết: Khoảng năm 1400 trước Công Nguyên
Lời Tiên Tri Được Ứng Nghiệm: Khoảng 3400 năm trước
Sách Sáng Thế Ký trong Kinh Thánh kể rằng vào khoảng 4000 năm trước, Chúa đã tìm thấy một người có đức tin mạnh mẽ. Tên của người ấy là Áp-ra-ham. Trong Sáng Thế Ký 12:1-3, Chúa gọi Áp-ra-ham và ban thưởng cho ông. Trong Sáng Thế Ký 15:18, Chúa phán rằng con cháu của Áp-ra-ham sẽ có đất nước của riêng họ, đất nước này sẽ nằm giữa sông Ai Cập và Sông Ơ-phơ-rát. (Đôi khi người ta gọi đây là Đất Hứa.)
Sách Sáng Thế Ký cũng giải thích đất hứa dành cho con cháu của Áp-ra-ham đã được thừa hưởng bởi con trai của ông là Y-sác, và sau đó là cháu của ông là Gia-cốp. Gia-cốp là cha của 12 chi phái thuộc Y-sơ-ra-ên.
Lời tiên tri về đất hứa này đã được ứng nghiệm vào khoảng 3400 năm trước, những con cháu người Do Thái của Áp-ra-ham là người đầu tiên thiết lập nên đất nước Y-sơ-ra-ên. Sách Giô-suê trong Kinh Thánh giải thích cách Giô-suê dẫn người Do Thái vào vùng đất đã được hứa dành cho họ, với tư cách là con cháu của Áp-ra-ham ham, Y-sác và Gia-cốp, và thành lập nên đất nước Y-sơ-ra-ên.
Đất nước Y-sơ-ra-ên sau đó được chia thành hai vương quốc, được gọi là Giu-đa và Y-sơ-ra-ên, cách đây khoảng 2900 năm. Vương quốc Y-sơ-ra-ên mất quyền độc lập khi bị A-si-ri chinh phục khoảng 2700 năm trước. Giu-đa đã mất sự độc lập vào khoảng 2600 năm trước khi bị Ba-by-lôn chinh phục.
Sau đó, khoảng 2000 năm trước, người La Mã phân tán người Do Thái (hoặc người Y-sơ-ra-ên, hoặc người Hê-bơ-rơ) trong suốt Đế chế La Mã.
Bắt đầu từ cuối những năm 1800, nhiều người Do Thái từ khắp nơi trên thế giới với số lượng lớn đã bắt đầu trở về vùng đất Y-sơ-ra-ên. Năm 1948, độc lập đã được tuyên bố cho nhà nước Y-sơ-ra-ên hiện đại.
Sáng Thế Ký 15:18 “Ngày đó, Ðức Giê-hô-va lập giao ước cùng Áp-ram, mà phán rằng: Ta cho dòng dõi ngươi xứ nầy, từ sông Ê-díp-tô cho đến sông lớn kia, tức sông Ơ-phơ-rát.”
3. Con cháu của Gia-cốp sẽ kế thừa vùng đất Y-sơ-ra-ên
Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh: Sáng Thế Ký 35:9-12
Lời Tiên Tri Được Viết: Khoảng năm 1400 trước Công Nguyên
Lời Tiên Tri Được Ứng Nghiệm: Khoảng 3400 năm trước
Trong Sáng Thế Ký 35:9-12, Gia-cốp được nhận lời tiên tri rằng con cháu của ông sẽ kế thừa vùng đất Y-sơ-ra-ên. Gia-cốp là cháu nội của Áp-ra-ham và là cha của 12 chi phái thuộc Y-sơ-ra-ên. Lời tiên tri đã được ứng nghiệm khi con cháu của ông tuyên bố vùng đất Y-sơ-ra-ên là quốc gia của họ vào khoảng năm 1400 trước Công nguyên (khoảng 3400 năm trước).
Y-sơ-ra-ên sau đó bị các quốc gia khác chinh phục và dân chúng bị buộc phải lưu đày. Nhiều người Do Thái đã trở lại trong hai thế kỷ qua và tái thiết độc lập cho nhà nước Y-sơ-ra-ên hiện đại vào năm 1948.
Sáng Thế Ký 35:9-12 “Khi ở xứ Pha-đan-a-ram đến, Ðức Chúa Trời lại hiện ra cùng Gia-cốp nữa, ban phước cho người, và phán rằng: Tên ngươi là Gia-cốp, sau nầy sẽ chẳng gọi Gia-cốp nữa, nhưng sẽ đặt là Y-sơ-ra-ên. Rồi Ngài đặt tên người là Y-sơ-ra-ên. Ðức Chúa Trời lại phán rằng: Ta là Ðức Chúa Trời toàn năng; ngươi hãy sanh sản và thêm nhiều; một dân cho đến nhiều dân đều sẽ do nơi ngươi mà sanh, cùng các vua sẽ do nơi mình ngươi mà ra. Xứ ta đã cho Áp-ra-ham và Y-sác thì ta sẽ cho ngươi cùng dòng dõi ngươi.”
4. Chúa sẽ không bao giờ quên con cái của Y-sơ-ra-ên
Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh: Ê-sai 49:13-17
Lời Tiên Tri Được Viết: Khoảng năm 701-681 trước Công Nguyên
Lời Tiên Tri Được Ứng Nghiệm: Xuyên suốt lịch sử
Trong Ê-sai 49:13-17, Chúa giải thích rõ ràng rằng mặc dù dân Y-sơ-ra-ên bị lưu đày khỏi đất nước họ, Chúa sẽ không bao giờ lãng quên họ, và đến cuối cùng Chúa sẽ mang những người lưu đày trở về quê hương mình.
Ê-sai sống khoảng 2700 năm trước. Vào khoảng thời gian đó, người A-si-ri xâm chiếm phía Bắc Y-sơ-ra-ên và buộc nhiều người phải lưu vong. Hơn một thế kỷ sau, người Ba-by-lôn đã chinh phục phía nam vùng đất Y-sơ-ra-ên, chấm dứt chủ quyền, phá hủy Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ, và buộc mọi người phải lưu vong.
Bất chấp những khó khăn, câu 15 và 16 nhắc nhở chúng ta rằng Chúa sẽ không bao giờ quên dân Y-sơ-ra-ên. Trong thực tế, hai câu này nói rằng ngay cả khi một người mẹ có thể quên con mình, Chúa sẽ không quên con cái mình, vì họ được “khắc” trên lòng bàn tay Ngài. Và, các câu 17 và 18 cho thấy con cái của Y-sơ-ra-ên sẽ trở lại, như họ đã làm sau sự sụp đổ của Đế chế Ba-by-lôn.
Ê-sai 49:13-17 “Hỡi trời, hãy hát! Hỡi đất, hãy vui mừng! Hỡi các núi, hãy lên tiếng hát xướng! Vì Ðức Giê-hô-va đã yên ủi dân Ngài, cũng thương xót kẻ khốn khó. Si-ôn từng nói rằng: Ðức Giê-hô-va đã lìa bỏ ta; Chúa đã quên ta. Ðàn bà há dễ quên con mình cho bú, không thương đến con trai ruột mình sao? Dầu đàn bà quên con mình, ta cũng chẳng quên ngươi. Nầy ta đã chạm ngươi trong lòng bàn tay ta; các tường thành ngươi thường ở trước mặt ta luôn. Con cái ngươi chóng về; kẻ phá hại hủy diệt ngươi sẽ ra khỏi giữa ngươi.”
(Còn tiếp)
Dịch: Sophie Nguyễn Thu Vịnh
Nguồn: 100prophecies.org
Ảnh: Sưu tầm
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Những Lời Tiên Tri Trong Kinh Thánh Được Ứng Nghiệm Bởi Israel – Phần 2 và hết
PHẦN X Bước Đi Bởi Đức Tin
Tất cả bắt đầu từ lời CHÚA đã hứa với Áp-ra-ham – lời hứa về một vùng đất, một quốc gia và một phước lành. Khởi đầu là lời kêu gọi dành cho Áp-ra-ham trong Sáng Thế Ký 12:1-3: “… Đức Giê-hô-va phán với Áp-ram: ‘Hãy ra khỏi quê hương, bà con thân tộc và nhà cha của con để đi đến vùng đất Ta sẽ chỉ cho con. Ta sẽ làm cho con thành một dân lớn, Ta sẽ ban phước cho con, làm rạng rỡ danh con và con sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước con, nguyền rủa kẻ nào nguyền rủa con. Mọi dân trên đất sẽ nhờ con mà được phước’…” (Sáng Thế Ký 12:1-3) Đây là giao ước nền tảng mà Đức Chúa Trời đã lập với tổ phụ của Y-sơ-ra-ên, và cũng là nền tảng của tất cả các giao ước về sau. Trong các cuộc đối thoại liên tiếp với Áp-ra-ham, nhiều chi tiết hơn về giao ước này đã được bày tỏ.
“…Trong ngày đó, Đức Giê-hô-va lập giao ước với Áp-ram rằng: “Ta ban cho dòng dõi con đất nầy, từ sông Ai Cập cho đến sông lớn kia, tức sông Ơ-phơ-rát, là đất đai của các dân Kê-nít, Kê-nê-sít, Cát-mô-nít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Rê-pha-im, A-mô-nít, Ca-na-an, Ghi-rê-ga-sít và Giê-bu-sít…” (Sáng Thế Ký 15:18-21).
Như vậy, Đức Chúa Trời không hứa một vùng đất hoang vu cho Áp-ra-ham, mà là một vùng đất có nhiều dân tộc sinh sống. Một trong số này là dân Giê-bu-sít, sống ở Giê-ru-sa-lem. Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên phải ‘mạnh dạn và can đảm’ mà đặt bàn chân lên vùng Đất Hứa, như Chúa đã phán bảy lần (Phục truyền Luật lệ Ký 31:6,7,23; Giô-suê 1:3; 6-9; 18), và sau đó Chúa sẽ ban vùng đất cho Y-sơ-ra-ên.
Những người đó phải mạnh dạn, can đảm và bước đi trong đức tin. Trong quá trình di chuyển, họ sẽ cảm nghiệm được sự rộng rãi của Chúa và sự thành tín trong những lời hứa của Ngài. Vùng đất này là nơi sinh sống của dân Kê-nít, Kê-nê-sít, Cát-mô-nít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Rê-pha-im, A-mô-nít, Ca-na-an, Ghi-rê-ga-sít và Giê-bu-sít. Do đó, đây không phải là một vùng đất hoang vu!
Có phải chính CHÚA đã sắp xếp để những dân tộc đó sẵn sàng ra đi trước khi dân Y-sơ-ra-ên chiếm lấy vùng Đất Hứa không? Hoàn toàn ngược lại, Y-sơ-ra-ên phải tự mình chinh phục vùng Đất Hứa. Để đạt được mục tiêu kế vị Môi-se, Giô-suê, người lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên tiến vào đất hứa sau khi lang thang trong sa mạc trong bốn mươi năm, phải thực sự mạnh mẽ và can đảm. Nhiều lần ông và dân Y-sơ-ra-ên được phán bảo: “… Bất cứ nơi nào bàn chân các con đạp đến thì Ta ban cho các con, như Ta đã phán với Môi-se…” (Giô-suê 1:3). Lời hứa này có nghĩa là Giô-suê phải can đảm, bước đi trong đức tin và đặt bàn chân của mình xuống.
Đức tin là như thế đó. Nếu bạn có một khải tượng, nếu bạn biết trong đức tin rằng bạn được Chúa kêu gọi để làm điều gì đó, thì hãy bước đi trong đức tin và sự vâng lời. Và trong quá trình bước đi, bạn sẽ thấy mình sẽ sở hữu được ‘vùng đất’, và cũng thấy được Đức Chúa Trời thực hiện lời hứa của Ngài và khiến bạn nhận ra sự kêu gọi của mình. Nhưng bạn phải tự mình làm điều đó. Nó không phải chỉ là giữ ở trong lòng bạn như một món quà sinh nhật. Nhưng “có cùng thì mới có biến, có biến thì mới có thông!”
Sau khi tiến vào vùng Đất Hứa và chinh phục được các thành trì của kẻ thù như Giê-ri-cô và A-hi, Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên cũng lên kế hoạch chinh phục Giê-ru-sa-lem. Sau đó A-đô-ni Bê-xéc, vua của Giê-ru-sa-lem, liên kết với năm vua của A-mô-rít để chống lại dân Ga-ba-ôn, những người đã thoát khỏi việc phải chiến tranh với Giô-suê thông qua việc lập một hiệp ước với Y-sơ-ra-ên (Giô-suê 9). Năm vua đồng minh cố gắng chinh phạt Ga-ba-ôn, nhưng Giô-suê đã đánh bại họ. CHÚA đã thực hiện lời hứa của Ngài là giao kẻ thù vào tay dân Y-sơ-ra-ên. Mặt trời và mặt trăng đứng yên, những viên đá từ trên trời rơi xuống (‘barad’, thường có nghĩa là những hòn đá lửa hoặc thiên thạch, không phải mưa đá lạnh như thông thường) và Giô-suê đã thắng trận (Giô-suê 10). Mặc dù ông đã trừ khử năm vị vua đó, bao gồm cả vua của Giê-ru-sa-lem, nhưng chúng ta đọc thấy trong Giô-suê 10:22-27 rằng rõ ràng là ông vẫn chưa chinh phục được thành phố. “…Người Giu-đa không đuổi được dân Giê-bu-sít ở tại Giê-ru-sa-lem nên dân Giê-bu-sít còn ở chung với người Giu-đa tại Giê-ru-sa-lem cho đến ngày nay…” (Giô-suê 15:63). Và tình trạng đó dường như vẫn kéo dài trong vài trăm năm sau hoặc lâu hơn nữa.
(Còn tiếp…)
Giáo sĩ Willem J. J. Glashouwer
Chủ tịch Cơ Đốc Nhân vì Israel Quốc tế
Chủ tịch danh dự Liên Minh Châu Âu vì Israel
Biên Dịch Cơ Đốc Nhân Vì Israel Quốc Tế
PHẦN IX: Giê-ru-sa-lem và Vùng Đất Hứa
“…Nhưng khi anh em qua sông Giô-đanh và ở trong đất mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em làm sản nghiệp, Ngài sẽ ban cho anh em sự an nghỉ, thoát khỏi sự vây hãm của mọi kẻ thù, và cho anh em một cuộc sống yên ổn. Bấy giờ sẽ có một địa điểm mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em chọn lựa để danh Ngài ngự tại đó, và là nơi anh em sẽ đem đến những thứ mà tôi đã truyền cho anh em như tế lễ thiêu, các sinh tế, thuế một phần mười, lễ vật dâng giơ lên, và các lễ vật hoàn nguyện mà anh em hứa dâng cho Đức Giê-hô-va. Anh em sẽ hân hoan trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời cùng với con trai, con gái, tôi trai tớ gái của anh em, và cả với người Lê-vi ở trong thành anh em, vì họ không được chia phần hay hưởng cơ nghiệp với anh em…” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 12:10-12)
Khi Y-sơ-ra-ên tái chiếm Giê-ru-sa-lem vào năm 1967, trái tim của những người Do Thái mộ đạo bắt đầu đập nhanh hơn. Đây có phải là thời điểm mà ngôi đền có thể được xây dựng lại, và nếu vậy, thì xây ở đâu?
Tất nhiên, nhiều người Do Thái mộ đạo mong đợi rằng nó sẽ là ở tại Giê-ru-sa-lem, trên đỉnh núi Si-ôn, nơi có các đền thờ của Sa-lô-môn và của Xô-rô-ba-bên. Trong lịch sử, những ngôi đền này đã bị phá hủy bởi các quốc gia ngoại giáo, những kẻ ngoại bang đến từ Ba-by-lôn và Rô-ma.
Nhưng tại sao lại là Giê-ru-sa-lem? Giê-ru-sa-lem có gì đặc biệt? Và tại sao lại ở trên núi Si-ôn? Có gì đặc biệt ở ngọn núi nhỏ, cao 800m so với mực nước biển, ở rìa sa mạc ấy?
Tên ‘Giê-ru-sa-lem’, có nghĩa đen là ‘nơi của sự hòa bình’, được tìm thấy hơn 800 lần trong Cựu Ước và Tân Ước. Các tên khác cũng được dùng để chỉ Giê-ru-sa-lem, bao gồm A-ri-ên, Thành của Đức Chúa Trời, Thành của Đa-vít, Thành của Giu-đa, Giê-bu, Thành Công Chính, Thành Lẽ Thật, Thành của Vua Lớn, Thành Thánh, Thành Trung Tín, Sa-lem và Si-ôn. Có những cái tên chỉ xuất hiện một lần, trong khi những cái tên khác xuất hiện một vài lần; cái tên ‘Si-ôn’ xuất hiện hơn 150 lần. Khi cái tên ‘Si-ôn’ được dùng trong Kinh Thánh, nó được dùng một cách trìu mến, nồng nàn, thân mật. Tổng cộng có khoảng 1000 sự liên hệ trực tiếp đến Thành Giê-ru-sa-lem trong toàn bộ Kinh Thánh.
Chúng ta hãy xem làm thế nào Y-sơ-ra-ên có thể tìm ra vị trí đặc biệt này của Đức Chúa Trời, bởi vì từ khá lâu rồi Y-sơ-ra-ên đã chiếm lấy Giê-ru-sa-lem và nhận ra rằng đây là nơi Đức Chúa Trời sẽ đặt để Danh Ngài. Thực sự phải mất hàng trăm năm sau khi vào Đất Hứa thì dân Y-sơ-ra-ên mới khám phá ra nơi Chúa sẽ chọn làm nơi cư ngụ cho Danh Ngài.
(Còn tiếp…)
Giáo sĩ Willem J. J. Glashouwer
Chủ tịch Cơ Đốc Nhân vì Israel Quốc tế
Chủ tịch danh dự Liên Minh Châu Âu vì Israel
Biên Dịch Cơ Đốc Nhân Vì Israel Quốc Tế
Phần VIII Sa-lem – Mô-ri-a – Giê-ru-sa-lem Trên Đất Và Giê-ru-sa-lem Trên Trời
Nguồn gốc của Giê-ru-sa-lem trên đất?
Đức Chúa Jesus Christ đã thiết lập Giao Ước Mới như thế nào?
Mối liên quan thuộc linh giữa Giê-ru-sa-lem ‘trên trời’ và Giê-ru-sa-lem dưới đất là gì?
Hê-bơ-rơ 11:8-10 có chép: “…Bởi đức tin, Áp-ra-ham vâng lời Chúa gọi, đi đến xứ mình sẽ nhận làm cơ nghiệp; ông đi mà không biết mình đi đâu. Bởi đức tin, ông cư trú trong đất hứa như trên đất ngoại quốc, ở trong các trại với Y-sác và Gia-cốp, là những người đồng thừa kế một lời hứa như ông. Vì ông chờ đợi một thành có nền móng do Đức Chúa Trời thiết kế và xây dựng…” Và các câu 17-19 chép: “…Bởi đức tin, Áp-ra-ham dâng Y-sác trong khi bị thử nghiệm. Ông sẵn sàng hiến dâng đứa con một đã nhận được theo lời hứa, là đứa con mà Đức Chúa Trời có phán: “Chính qua Y-sác, con sẽ có một dòng dõi được gọi bằng tên con.” Ông tự nghĩ rằng Đức Chúa Trời có quyền khiến kẻ chết sống lại, nói theo nghĩa bóng, ông thật đã nhận lại con mình từ cõi chết…”
Điều hết sức rõ ràng ở đây là Giê-ru-sa-lem ‘trên trời’ và Giê-ru-sa-lem dưới đất hoàn toàn có liên quan với nhau. Và đúng là phải như vậy, nguồn gốc của Giê-ru-sa-lem trên đất chính là Giê-ru-sa-lem trên trời. Một khi mối quan hệ thuộc linh đó hiện hữu và sống động, thì Giê-ru-sa-lem sẽ chạm đến vận mệnh thực sự của mình.
Qua Mên-chi-xê-đéc, Áp-ra-ham bắt đầu hiểu rằng nơi này có một vị trí đặc biệt trong sự mặc khải của Đức Chúa Trời. Ở đó, trên Núi Mô-ri-a, Chúa đã cung ứng một con chiên, con cừu đực hoặc con cừu để hy sinh thế chỗ cho Y-sác. Hàng trăm năm sau, Đa-vít hiểu được rằng đây là nơi Danh Chúa sẽ ngự, và đó là nơi con trai ông là Sa-lô-môn sẽ xây dựng Đền thờ. Trong Đền thờ đó, hài nhi Jesus được cha mẹ dâng lên cho Chúa, và sau đó cậu bé Jesus mười hai tuổi đã thốt lên những lời về Cha Ngài. Chính tại Giê-ru-sa-lem, trong kỳ lễ Lều Tạm, Chúa Jesus đã hoàn toàn bày tỏ chính Ngài (Giăng 7), và sau đó tiến vào thành một cách đầy vinh hiển trên lưng lừa với tư cách là Vua Hòa Bình. Tại đó, Đức Chúa Jesus Christ đã thiết lập Giao Ước Mới trong bữa ăn Vượt Qua với những người bạn Do Thái của Ngài, biểu thị cho thân thể vỡ nát và dòng huyết tuôn đổ của Ngài. Chính tại Giê-ru-sa-lem, nơi thập tự giá hiên ngang đứng, là nơi Ngài phục sinh và thăng thiêng, cũng là nơi Ngài sẽ trở lại. Một lần nữa, đôi chân Ngài sẽ đứng trên Núi Ô-liu, ở phía đông Giê-ru-sa-lem. Ở đó, tại Giê-ru-sa-lem, là nơi vào ngày Lễ Ngũ Tuần, lễ Shavuot, Đức Thánh Linh đã tuôn đổ.
Khởi phát từ Si-ôn, từ Giê-ru-sa-lem, một ngày kia, kinh luật Torah cùng với Lời Chúa sẽ được truyền đi khắp thế giới, và khi đó các quốc gia sẽ không còn tập trận nữa. Và cuối cùng, một ngày kia, đây là nơi Thành Thánh, thành Giê-ru-sa-lem trên trời, sẽ từ trên trời ngự xuống, và sự cư ngụ của Đức Chúa Trời sẽ ở cùng loài người và Đức Chúa Trời sẽ ở giữa vòng con người.
Hơn 100 năm nay, người Do Thái đã trở về Y-sơ-ra-ên, sau gần 2000 năm lưu vong khắp nơi trên thế giới. Thành phố, quốc gia và vùng đất này đang được chuẩn bị cho tương lai của Đức Chúa Trời và cho sự mặc khải vĩ đại của Ngài cho dân Y-sơ-ra-ên. Họ đang được chuẩn bị cho sự Hiện Đến của Vương quốc Ngài, và Vua của Vương quốc đó, Đấng sẽ đến để làm cho muôn vật trở nên mới mãi mãi.
Tóm lại, nguồn gốc của Giê-ru-sa-lem thật trên đất này là ở Giê-ru-sa-lem trên trời. Nguồn gốc đó là từ xa xưa, từ trước vô cùng. Chỉ khi nào cái gốc rễ này cung cấp nhựa sống cho nó, thì Giê-ru-sa-lem, với tư cách là thành phố của Đức Chúa Trời, mới làm chứng cho mục đích mà nó đã được chọn lựa. Đây là nơi CHÚA sẽ làm cho Danh Ngài ngự trị, để từ đó các phước lành của Ngài có thể lan tỏa khắp các tạo vật của Ngài. Đức Chúa Trời Toàn Năng có một mối liên hệ đặc biệt của riêng Ngài với nơi này, là nơi Danh Ngài đã và sẽ ở mãi mãi!
(Còn tiếp…)
Giáo sĩ Willem J. J. Glashouwer
Chủ tịch Cơ Đốc Nhân vì Israel Quốc tế
Chủ tịch danh dự Liên Minh Châu Âu vì Israel
Biên Dịch Cơ Đốc Nhân Vì Israel Quốc Tế
Phần VII: Thầy Tế Lễ (Tiếp theo)
Trong Hê-bơ-rơ 5:1-10, Hê-bơ-rơ 6:13-20, Hê-bơ-rơ 7 và Hê-bơ-rơ 8:1-7, chúng ta đọc biết về cách trước giả sách Hê-bơ-rơ làm rõ rằng trong Đấng Christ, chúng ta có một thầy tế lễ Thượng phẩm tốt hơn so với chức tế lễ của người Lê-vi, một của lễ tốt hơn và một Giao Ước tốt hơn. Trước giả sách Hê-bơ-rơ, có lẽ là sứ đồ Phao-lô, dạy rằng ‘Lê-vi’ ra từ dòng dõi Áp-ra-ham, là hậu tự của ông. Lê-vi khi đó chưa được sinh ra, kể cả là Y-sác, Gia-cốp và các con trai của Gia-cốp, mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên. Trong số họ có chi phái Lê-vi, những người trở thành các thầy tế lễ của Y-sơ-ra-ên. Nhưng tất cả họ đều đã ở đó TRONG dòng dõi Áp-ra-ham. Vấn đề chỉ còn là thời gian cho đến khi tất cả lần lượt được sinh ra. Như vậy, về nguyên tắc, tất cả đều trình diện, khi Áp-ra-ham dâng mười phần trăm, tức phần mười, cho Mên-chi-xê-đéc; và nhận được lời chúc phước từ ông. Áp-ra-ham đã nhận lời chúc phước này từ Mên-chi-xê-đéc, và do đó thừa nhận rằng thầy tế lễ này có bậc cao hơn mình, mặc dù ông đã trở thành tổ phụ của Những Người Được Chọn, và một ngày kia đó từ sẽ xuất hiện một Người Được Chọn với tư cách là Đấng Cứu Rỗi của thế gian!
Hê-bơ-rơ 7:1-10 “…Mên-chi-xê-đéc nầy là vua của Sa-lem, thầy tế lễ của Đức Chúa Trời chí cao, đã đón và chúc phước cho Áp-ra-ham khi người chiến thắng các vua trở về; Áp-ra-ham đã lấy một phần mười về mọi của cải mình có mà dâng cho vua. Tên vua ấy, trước hết có nghĩa là “vua công chính”, và cũng là vua của Sa-lem, nghĩa là “vua hòa bình”. Người không cha, không mẹ, không gia phả, không có ngày sinh ra, cũng không có ngày qua đời, nhưng giống Con Đức Chúa Trời, làm thầy tế lễ đời đời. Thử nghĩ xem, chính tổ phụ Áp-ra-ham đã lấy một phần mười chiến lợi phẩm mà dâng cho vua, thì vua ấy vĩ đại biết bao! Theo một mệnh lệnh trong luật pháp, con cháu Lê-vi chịu chức tế lễ thì được nhận một phần mười từ trong dân chúng, tức là từ các anh em mình, dù chính họ cũng từ Áp-ra-ham mà ra. Nhưng vua vốn không phải là dòng dõi Lê-vi, cũng nhận một phần mười của Áp-ra-ham và chúc phước cho ông là người có lời hứa. Người bậc cao chúc phước cho người bậc thấp, đó là điều không chối cãi được. Trong trường hợp nầy, những người nhận một phần mười là người phàm phải chết; trong trường hợp kia, người ấy được chứng nhận là đang sống. Có thể nói rằng Lê-vi là người nhận một phần mười, cũng qua Áp-ra-ham mà dâng một phần mười, vì lúc Mên-chi-xê-đéc đi đón Áp-ra-ham, thì Lê-vi còn ở trong lòng tổ phụ…” Vì vậy, Mên-chi-xê-đéc được Áp-ra-ham thừa nhận là người cao trọng hơn, và theo nghĩa đó thì người cũng đã được Lê-vi thừa nhận, và cả nhà Y-sơ-ra-ên cũng thừa nhận điều đó nữa!
Giáo hội Cơ Đốc đã nhìn thấy ở Mên-chi-xê-đéc một hình bóng về Đấng Christ, Thầy Tế Lễ – Vua đến từ cõi vô tận, từ cõi vĩnh hằng, từ cõi ‘Đời đời’. Mi-chê 5:2 (RVV11) “…Hỡi Bết-lê-hem Ép-ra-ta, ngươi ở trong hàng nghìn Giu-đa là nhỏ lắm, nhưng từ nơi ngươi, một Đấng cai trị trên Y-sơ-ra-ên sẽ được sinh ra; nguồn gốc của Ngài từ đời xưa, từ trước vô cùng…” Mi-chê 5:2 (BD2011) “…Này ngươi, hỡi Bết-lê-hem ở Ép-ra-tha, dù ngươi nhỏ bé không ra gì giữa các thị tộc của Giu-đa, nhưng từ ngươi sẽ ra cho Ta một người, một người sẽ trị vì trên Y-sơ-ra-ên. Gốc gác của Người đã có từ ngàn xưa, từ vô cực trong quá khứ… ” Chúa Jesus là một thầy tế lễ thượng phẩm đã tự nguyện phó mạng sống mình theo ý muốn của Ngài, làm của lễ chuộc tội hoàn hảo nhất, có nguồn gốc từ đời đời. Ngài là một thầy tế lễ cao trọng hơn Lêvi, và đã trở thành của lễ được cử hành với bánh và chén trong mỗi Bữa Tiệc Thánh tại bàn tiệc của Chúa. Và Ngài là Đấng có mọi thẩm quyền trên trời và dưới đất. Ma-thi-ơ 28:18 “…Đức Chúa Jêsus đến và phán với họ rằng: “Tất cả thẩm quyền trên trời dưới đất đã giao cho Ta…” Hê-bơ-rơ 2:5-9 “…Thật, Đức Chúa Trời không đặt thế giới tương lai mà chúng ta đang nói đó phục dưới quyền các thiên sứ. Nhưng có một chỗ trong Kinh Thánh đã làm chứng rằng: “Loài người là gì mà Chúa nhớ đến? Con người là ai mà Chúa lại quan tâm? Chúa đã đặt Người thấp hơn các thiên sứ trong một thời gian ngắn; Chúa đội cho Người mão triều vinh quang và tôn trọng, đặt mọi vật phục dưới chân Người.” Khi đặt mọi vật phục Đức Chúa Jêsus như vậy, Đức Chúa Trời chẳng để một vật nào không phục Ngài. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta chưa thấy mọi vật phục Ngài. Nhưng chúng ta thấy Đức Chúa Jêsus, Đấng bị đặt thấp hơn các thiên sứ trong một thời gian ngắn, bây giờ được đội mão triều vinh quang và tôn trọng vì sự chết mà Ngài đã chịu, để nhờ ân điển của Đức Chúa Trời, Ngài đã nếm sự chết vì mọi người… ”
Một ngày kia, Ngài sẽ đến trong Vinh quang để làm cho mọi sự trở nên mới mãi mãi. Khi đó, cả thế giới sẽ chứng kiến và kinh nghiệm Vương quốc Bình an và Công bình của Ngài, từ Giê-ru-sa-lem, như Ê-sai 2:2-4 đã nói: “…Trong những ngày cuối cùng, núi của đền thờ Đức Giê-hô-va sẽ được lập vững trên các đỉnh núi, vượt cao hơn các đồi. Mọi quốc gia sẽ đổ về đó, nhiều dân tộc sẽ đến và nói rằng: “Hãy đến, chúng ta hãy lên núi Đức Giê-hô-va, đến đền thờ Đức Chúa Trời của Gia-cốp. Ngài sẽ dạy chúng ta đường lối Ngài, chúng ta sẽ đi trong các nẻo Ngài.” Vì luật pháp sẽ ra từ Si-ôn, và lời Đức Giê-hô-va sẽ ra từ Giê-ru-sa-lem. Ngài sẽ phán xét giữa các quốc gia, và phân xử cho nhiều dân tộc. Bấy giờ, họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi cày, lấy giáo rèn lưỡi liềm. Nước nầy không còn vung gươm đánh nước kia, họ cũng không còn luyện tập chinh chiến nữa…”
Nguồn gốc của Giê-ru-sa-lem! Làm thế nào chúng ta có thể hiểu được? Đâu mới là nguồn gốc, đặc biệt là nguồn gốc thuộc linh của nơi này? Tất cả đều đã xảy ra tại Sa-lem, tại Giê-ru-sa-lem, nơi Áp-ra-ham gặp một Mên-chi-xê-đéc kính sợ Đức Chúa Trời, và dâng phần mười cho người. Tại đó Áp-ra-ham đã nhận lấy phước lành của Đức Chúa Trời từ người này. Thầy tế lễ – vua Mên-chi-xê-đéc đã đến gặp ông với bánh và rượu, và tại nơi thầy tế lễ – vua này, Áp-ra-ham đã nhận thấy Đức Chúa Trời là Đấng đã gọi ông ra khỏi quê hương ngoại giáo tại U-rơ thuộc xứ Canh-đê để đến Đất Hứa. Vì vậy, Đức Chúa Trời đã cung ứng ở nơi này những gì Áp-ra-ham cần cho thể xác, linh hồn và tâm linh. Sau đó Áp-ra-ham bị thử thách. Ông có sẵn lòng và chuẩn bị hy sinh đứa con trai Y-sác không? Trong Sáng Thế Ký 22:1-2, chúng ta đọc thấy: “…Sau các việc đó, Đức Chúa Trời thử nghiệm Áp-ra-ham. Ngài gọi ông: “Áp-ra-ham!” Ông thưa: “Dạ, có con đây.” Đức Chúa Trời phán: “Hãy dẫn con trai của con, đứa con một mà con yêu dấu, là Y-sác, đi đến đất Mô-ri-a. Tại đó, con hãy dâng đứa trẻ làm tế lễ thiêu trên một trong những ngọn núi mà Ta sẽ chỉ cho con…” Và trong câu 9: “…Khi đã đến nơi Đức Chúa Trời chỉ định, Áp-ra-ham lập tại đó một bàn thờ, xếp củi lên rồi trói Y-sác con mình lại, đặt lên đống củi trên bàn thờ…”
Một số người sẽ cảm thấy rằng yêu cầu mà Đức Chúa Trời dành cho Áp-ra-ham là khá độc ác. Nhưng Chúa Jesus cũng đã đưa tất cả chúng ta đến với một thử thách giống như vậy. Ngài nói trong Ma-thi-ơ 10:37-39 “…Ai yêu cha hoặc mẹ hơn Ta thì không xứng đáng với Ta; ai yêu con trai hoặc con gái hơn Ta cũng không xứng đáng với Ta. Ai không vác thập tự giá mình mà theo Ta thì chẳng xứng đáng với Ta. Ai tìm mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai vì Ta mà mất mạng sống mình thì sẽ tìm lại được…” Trong Mác 10:24-30 “…Các môn đồ ngạc nhiên về những lời nầy. Nhưng Đức Chúa Jêsus lại phán: “Hỡi các con, những ai nương cậy vào sự giàu có để được vào vương quốc Đức Chúa Trời thật vô cùng khó khăn! Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào vương quốc Đức Chúa Trời.” Các môn đồ vô cùng ngạc nhiên, nói với nhau: “Vậy thì ai có thể được cứu?” Đức Chúa Jêsus nhìn họ và phán: “Loài người không thể làm được việc nầy, nhưng với Đức Chúa Trời thì khác; vì Đức Chúa Trời làm được mọi sự.” Phi-e-rơ liền nói: “Thưa Thầy, chúng con đã từ bỏ tất cả mà theo Thầy.” Đức Chúa Jêsus đáp: “Thật, Ta bảo các con, không một ai vì Ta và Tin Lành từ bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đất ruộng, mà bây giờ, ngay trong đời nầy, lại không nhận gấp trăm lần hơn về nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con cái, đất ruộng, cùng với sự bắt bớ, và sự sống đời đời trong đời sau…”
Đức Chúa Trời đã cung ứng cho Áp-ra-ham những nhu cần về thể xác, linh hồn và tâm linh ngay trên ngọn núi đó. Sáng Thế Ký 22:12-14 “…Thiên sứ bảo: “Đừng ra tay hại đứa trẻ và cũng không được làm gì nó cả. Bây giờ, Ta biết rằng con thật lòng kính sợ Đức Chúa Trời vì con không tiếc con mình với Ta, dù là đứa con duy nhất của con.” Áp-ra-ham ngước mắt nhìn và thấy một con chiên đực, sừng mắc trong bụi cây. Áp-ra-ham bắt con chiên đực đó dâng làm tế lễ thiêu thay cho con trai mình. Áp-ra-ham gọi địa điểm đó là “Giê-hô-va Cung Ứng.” Vì vậy, ngày nay người ta còn nói: “Trên núi của Đức Giê-hô-va điều ấy sẽ được cung ứng…”
Đây là ngọn núi có Sự Hiện Diện thánh của Đức Chúa Trời, Núi Si-ôn, Núi Mô-ri-a, là nơi mà Chúa đã nhiều lần bày tỏ chính Ngài theo những cách khác thường. Đây là nơi mà mọi bước ngoặt trong lịch sử của chính nó đều bằng một cách nào đó được kết nối với Thiên đàng. Chúng ta có thể xem đó là một nơi chốn, một ngọn núi, một địa điểm, một khu vực, một thành phố với một giao điểm, hoặc có thể nói theo cách khác là một cánh cửa rộng mở dẫn đến Thiên đàng. Giê-ru-sa-lem trên đất và trên trời dường như liên tục có mối quan hệ cởi mở với nhau.
(Còn tiếp…)
Giáo sĩ Willem J. J. Glashouwer
Chủ tịch Cơ Đốc Nhân vì Israel Quốc tế
Chủ tịch danh dự Liên Minh Châu Âu vì Israel
Biên Dịch Cơ Đốc Nhân Vì Israel Quốc Tế
Trong ba ngày qua, còi báo động đỏ đã vang lên không ngừng trên khắp đất nước. Từ tiếng còi báo động cho tên lửa trong tiếng Do Thái là “Tzeva Adom,” có nghĩa là Màu Đỏ. Ở nhiều thành phố, khi tiếng còi báo động của Color Red vang lên, người dân chỉ có vài giây hoặc có thể là một phút để chạy đến hầm tránh bom khi tên lửa đổ xuống. Đây là một thực tế đáng sợ đối với hàng triệu người. Cuộc sống của họ đang gặp rất nhiều nguy hiểm. IDF đã xác nhận rằng HƠN 1.500 ROCKETS đã được bắn về phía Israel từ Gaza kể từ thứ Hai.
Israel đang bị tấn công! Khoảng hơn 300 Rockets đã được bắn vào các khu vực dân sự của Israel kể từ đêm hôm qua. Vụ va chạm tên lửa ấn tượng nhất ở Israel cho đến nay là ở Petah Tikva. Khoảng 20 người đã được sơ tán đến bệnh viện sau cú va chạm trực tiếp làm bùng phát đám cháy lớn.Đây là những gì chúng ta đang chứng kiến ở Israel, một khu dân cư ở trung tâm bị phá hủy bởi tên lửa bắn từ Dải Gaza. Israel đối mặt với Hamas, một tổ chức khủng bố khát máu đang tìm cách giết người dân vô tội và xóa ra khỏi bản đồ.
Hơn 650 mục tiêu thuộc Hamas đã bị nhắm tới trong các cuộc không kích của IDF đang diễn ra, bao gồm 3 tòa nhà cao tầng, ngoài các mục tiêu của chính phủ ở Dải Gaza như ngân hàng trung ương và các tòa nhà an ninh nội bộ. Nhiều còi báo động Red Alert hiện đang vang lên ở miền trung và miền nam Israel. Lực lượng của Israel ném bom hai ngân hàng và một tòa nhà dân dụng bao gồm trụ sở của Hiệp Hội khủng bố Thổ Nhĩ Kỳ ở Gaza. Máy bay Israel nhắm vào một tòa nhà 5 tầng, bao gồm văn phòng, căn hộ, cửa hàng thương mại và trụ sở của hiệp hội ′′ Yardem Alli ′′ (phi chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ) phía tây Gaza, và hai ngân hàng khủng bố Hamas ở thành phố Rafah.
Thi-thiên 122: 6 “Hãy cầu hòa bình cho Giê-ru-sa-lem;
Phàm kẻ nào yêu mến ngươi sẽ được thới thạnh”
Via Operation Lifeshield/ Israeli Mosaad/ Israel en Español/ StandWithUs
Biên dịch và tổng hợp: Cơ Đốc Nhân Vì Israel Quốc Tế
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=499963608017183&id=108022747211273





Phần VII: Thầy Tế Lễ
Trong Sáng Thế Ký 14:18-20 chúng ta đọc thấy: “…Mên-chi-xê-đéc, vua Sa-lem, cũng là thầy tế lễ của Đức Chúa Trời Chí Cao, đem bánh và rượu ra đón, và chúc phước cho Áp-ram. Ông [Mên-chi-xê-đéc] nói: “Nguyện Đức Chúa Trời Chí Cao, Đấng dựng nên trời và đất, ban phước cho Áp-ram! Chúc tụng Đức Chúa Trời Chí Cao, Đấng đã trao kẻ thù vào tay ngươi!” Áp-ram dâng cho vua [Mên-chi-xê-đéc] một phần mười chiến lợi phẩm…”
Như vậy là trong hành trình của Áp-ra-ham, cuộc gặp gỡ với Mên-chi-xê-đéc đã diễn ra ở Đất Hứa, một vị vua đồng thời là thầy tế lễ kính sợ Đức Chúa Trời của Sa-lem. Không hề có sự đề cập nào về một gia phả, không ai biết ông ấy đến từ đâu và sau cuộc gặp gỡ đó không ai biết chuyện gì đã xảy ra với ông. Lai lịch của ông ấy không được nhắc đến. Rõ ràng là ông đứng trong hàng ngũ những người kính sợ Đức Chúa Trời của nhân loại từ A-đam đến Nô-ê và ông phục vụ El Eljon, Đức Chúa Trời Có Một Và Thật… ở Sa-lem!
Thật là một niềm an ủi lớn dành cho Áp-ram. Ông đã được Đức Chúa Trời Chí Cao kêu gọi để đi đến vùng Đất Hứa. Ông đã vâng lời và dường như không có gì ngoài những rắc rối chờ ông ở phía trước. Khi ông đến được vùng Đất Hứa, nơi này thậm chí còn không thể nuôi sống ông. Có nạn đói ở đó, vì vậy ông phải chuyển đến Ai Cập để tìm lương thực. Nhưng rồi rắc rối tiếp theo lại nảy sinh khi Pha-ra-ôn của Ai Cập muốn có được người vợ xinh đẹp của ông là Sa-ra. Chỉ còn cách nói rằng nàng là em gái mình thì ông mới có thể bảo toàn mạng sống được. Đó là một nửa của sự thật, bởi vì bà thực sự là em gái cùng cha khác mẹ của ông nhưng một nửa sự thật chính là một lời nói dối hoàn toàn. Sự xấu hổ được che đậy, ông trở lại với vùng Đất Hứa. Nhưng đây không phải là dấu chấm hết cho những rắc rối của ông!
Sau khi trở lại vùng Đất Hứa, Áp-ra-ham sớm phải gây chiến với năm vị ‘vua’, có lẽ là các lãnh chúa địa phương, những người đã bắt cóc cháu trai của ông là Lót, cùng với gia đình và toàn bộ tài sản của người này. Áp-ra-ham đã chiến thắng trong cuộc chiến này khi thành lập một đội quân nhỏ gồm 318 thuộc hạ, nhưng có lẽ ông cũng đã tự hỏi liệu đây có phải là vùng Đất Hứa hay không. CHÚA đã hứa ban cho ông một vùng đất, một dân tộc/ quốc gia và một phước lành, nhưng dường mọi thứ không giống như vậy – thậm chí là cũng không gần giống luôn! Ngay cả khi có một đứa con trai mà cũng không thực sự là con của vợ chồng ông và việc đấu tranh cho những nhu cầu thiết yếu hàng ngày của một đứa trẻ cũng là một gánh nặng phiền phức.
Và rồi, một cách đột ngột và hoàn toàn bất ngờ, Mên-chi-xê-đéc này đã xuất hiện, với lễ vật là bánh và rượu. Đó là một sự khích lệ, được Đức Chúa Trời Toàn Năng gửi đến để ban sức mạnh cho Áp-ra-ham để ông có thể tiếp tục cuộc sống hàng ngày của mình với những thử thách và gian khổ.
Cùng một cách như vậy, về sau trong Kinh Thánh cũng có sự khích lệ dành cho tiên tri Ê-li. Sau chiến thắng ngoạn mục trước các thầy tế lễ và tiên tri của thần Ba-anh (I Các Vua 18), một lần nữa vua A-háp muốn lấy mạng ông, nên Ê-li-sê đã lại phải chạy trốn để cứu lấy mạng sống mình.
I Các Vua 19:1-5a “…A-háp thuật cho Giê-sa-bên mọi việc Ê-li đã làm, kể cả việc ông dùng gươm giết tất cả tiên tri Ba-anh. Giê-sa-bên sai một sứ giả đến gặp Ê-li và nói: “Nếu vào giờ nầy ngày mai, ta không xử mạng sống ngươi như mạng sống của một trong những tiên tri mà ngươi đã giết, nguyện các thần phạt ta cách nặng nề.” Ê-li sợ hãi và đứng dậy chạy trốn để cứu mạng sống mình. Đến Bê-e Sê-ba thuộc Giu-đa, ông để đầy tớ mình ở lại đó. Còn ông thì đi một ngày đường nữa vào trong hoang mạc. Ông đến ngồi dưới một cây giếng giêng và cầu xin được chết: “Ôi Đức Giê-hô-va! Đã đủ rồi. Xin cất mạng sống con đi, vì con không hơn gì các tổ phụ con.” Rồi ông nằm ngủ dưới cây giếng giêng…”
Nhưng rồi một thiên sứ xuất hiện và nói – câu 5b-8: “…Có một thiên sứ chạm vào ông và bảo: “Hãy dậy mà ăn.” Ông nhìn thấy phía trên đầu mình một cái bánh nhỏ nướng trên than, và một bình nước. Ăn uống xong, ông lại nằm xuống. Thiên sứ của Đức Giê-hô-va đến lần thứ nhì, chạm vào ông và nói: “Hãy dậy mà ăn thêm đi, vì đường còn xa lắm cho con.” Ông thức dậy và ăn uống, rồi nhờ lương thực ấy, ông có sức để đi bốn mươi ngày và bốn mươi đêm đến Hô-rếp, là núi của Đức Chúa Trời…”
Và sau đó, một cuộc gặp gỡ cực kỳ ấn tượng với CHÚA đã diễn ra tại núi Hô-rếp. Câu 9-13: “…Đến nơi, ông vào trong hang đá và ngủ đêm ở đó. Có lời của Đức Giê-hô-va phán với ông: “Hỡi Ê-li, con đang làm gì ở đây?” Ông thưa rằng: “Con rất nhiệt thành với Giê-hô-va Đức Chúa Trời vạn quân. Vì dân Y-sơ-ra-ên đã loại bỏ giao ước Ngài, phá hủy các bàn thờ Ngài, dùng gươm giết các nhà tiên tri của Ngài; chỉ một mình con còn lại, và họ cũng đang truy tìm để lấy mạng sống con.” Đức Chúa Trời phán với ông: “Hãy đi ra, đứng trên núi trước mặt Đức Giê-hô-va.” Kìa, Đức Giê-hô-va đang đi ngang qua; có một ngọn gió thổi rất mạnh, xé núi ra và làm vỡ các tảng đá trước mặt Đức Giê-hô-va, nhưng không có Đức Giê-hô-va trong ngọn gió ấy. Sau ngọn gió, có trận động đất, nhưng không có Đức Giê-hô-va trong trận động đất ấy. Sau trận động đất, có đám lửa, nhưng cũng không có Đức Giê-hô-va trong đám lửa ấy. Sau đám lửa, có một tiếng êm dịu nhỏ nhẹ. Vừa nghe tiếng ấy, Ê-li lấy áo choàng phủ kín mặt mình, ra đứng nơi miệ Ông thưa: “Con rất nhiệt thành với Giê-hô-va Đức Chúa Trời vạn quân. Vì dân Y-sơ-ra-ên đã loại bỏ giao ước Ngài, phá hủy các bàn thờ Ngài, dùng gươm giết các nhà tiên tri của Ngài; chỉ một mình con còn lại, và họ cũng đang truy tìm để lấy mạng sống con.” Nhưng Đức Giê-hô-va phán với ông: “Hãy theo con đường hoang mạc đi đến Đa-mách…”
Tương tự như vậy, về sau nữa trong Kinh Thánh, Chúa Jesus đã khích lệ các môn đồ của Ngài, những người bạn trẻ tuổi mà sau này sẽ trở thành sứ đồ của Ngài. Mác 6:30-31: “…Các sứ đồ tụ họp chung quanh Đức Chúa Jêsus, tường trình với Ngài mọi việc họ đã làm và dạy dỗ. Ngài bảo các sứ đồ: “Các con hãy đi tẽ vào nơi thanh vắng, nghỉ ngơi một lúc.” Vì kẻ qua người lại quá đông, nên Ngài và sứ đồ không có thì giờ để ăn…”
Chúa Jesus bảo: “Hãy nghỉ ngơi một lúc”. Ngài không giống như một chủ nô hết lần này đến lần khác sai họ đi làm việc cho đến khi họ hoàn toàn kiệt sức. Ngài biết rằng hành trình đi hết cuộc đời này sẽ mất một khoảng thời gian dài, với nhiều thử thách và gian nan, và có thể có cả những nghi ngờ, cám dỗ và tuyệt vọng. Nhưng rồi Ngài đến với chúng ta với tư cách là Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm thiên thượng của chúng ta, với bánh và chén, thân thể vỡ nát và dòng huyết tuôn rơi của Ngài. Ngài cứ làm và cứ làm như vậy, để cho chúng ta sức mạnh, bởi vì hành trình đi hết cuộc đời này hãy còn dài; để có một cuộc gặp gỡ cá nhân với chúng ta bởi Đức Thánh Linh và trong bánh và chén, và để phục hồi sức lực của chúng ta theo một cách đầy năng quyền và thuộc linh. Ma-thi-ơ 11:28 “…Hỡi những ai mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ cho các ngươi được an nghỉ…” Ngài kéo chúng ta lại gần với Ngài trong một mối quan hệ mật thiết, để rồi sau đó chúng ta có thể tiếp tục hành trình trong quyền năng tràn đầy bởi Đức Thánh Linh. Ngài mời gọi tất cả chúng ta đến với Ngài, không có ngoại lệ! Mọi người đều được chào đón!
Bởi vì hình bóng này liên hệ Mên-chi-xê-đéc với Đấng Christ, nên sự việc Mên-chi-xê-đéc đem ‘bánh và rượu’ ra đón Áp-ra-ham có thể được hiểu rõ hơn. Đây là những yếu tố của Giao Ước Mới mà Chúa Jesus đã thiết lập với nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa (Giê-rê-mi 31:31-34). Lu-ca 22:19-20: “…Rồi Ngài lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, phân phát cho các môn đồ và phán: “Nầy là thân thể Ta vì các con mà phó cho. Hãy làm điều nầy để nhớ đến Ta.” Khi ăn xong, Ngài cũng làm như vậy, lấy chén trao cho các môn đồ và phán: “Chén nầy là giao ước mới trong huyết Ta vì các con mà đổ ra…” Như vậy, Chúa Jesus đến với dân Y-sơ-ra-ên và với chúng ta trên hành trình đến vùng Đất Hứa cùng bánh và chén, hết lần này đến lần khác. Nếu không thì hành trình sẽ trở nên quá dài và quá xa xôi.
(Còn tiếp…)
Giáo sĩ Willem J. J. Glashouwer
Chủ tịch Cơ Đốc Nhân vì Israel Quốc tế
Chủ tịch danh dự Liên Minh Châu Âu vì Israel
Biên Dịch Cơ Đốc Nhân Vì Israel Quốc Tế