Home Truyện Ở Đâu Có Tình Yêu Thương Ở Đó Có Chúa

Ở Đâu Có Tình Yêu Thương Ở Đó Có Chúa

by Sưu Tầm
30 đọc

Có một người thợ giày sống trong một thị trấn nhỏ, ông tên là Martin Avdéiteh. Ông có một căn phòng rất bé ở tầng hầm, một cái cửa sổ nhìn ra ngoài đường. Qua đó người ta chỉ có thể nhìn thấy chân của những người đi qua, nhưng Martin nhận diện con người qua giày dép của họ. Ông đã sống rất lâu ở chỗ nầy và quen biết nhiều người. Ít có đôi giày nào trong vùng chung quanh mà không một hay hai lần qua tay ông, do vậy ông thường nhìn thấy công trình của tay mình qua cái cửa sổ. Có chiếc được ông làm đế lại, có chiếc được khâu, được may và có chiếc ông thậm chí đã làm mới lại phần trên. Ông có rất nhiều việc để làm, vì ông làm việc tốt, sử dụng vật liệu tốt, không lấy tiền công quá cao, và được tin cậy. Nếu làm được một việc theo ngày yêu cầu, ông sẽ làm; còn không, ông nói thật và không hứa sai; bởi thế ông được tiếng tốt và không bao giờ thiếu việc làm.

Martin là một người tốt; nhưng khi về già ông bắt đầu suy nghĩ nhiều hơn về linh hồn mình và sống hướng về Chúa nhiều hơn. Lúc còn làm việc cho một người thầy, trước khi có tiệm riêng, vợ ông đã qua đời để lại ông đứa con trai lên ba. Không có đứa con nào của ông còn sống, tất cả đều chết ngay từ bé. Hồi đầu Martin nghĩ đến việc gửi đứa nhỏ cho người chị của ông trong xứ, nhưng rồi ông thấy buồn vì phải xa con, ông nghĩ trong lòng: ‘Thằng Kapitón phải sống trong một gia đình xa lạ chắc là khổ lắm; ta sẽ giữ nó lại với ta.’ Martin rời thầy mình và đến sống trong khu nhà trọ với đứa con trai nhỏ của mình. Nhưng ông không gặp may với những đứa con của ông. Chẳng bao lâu thằng bé đã đến cái tuổi nó có thể giúp cha và trở thành chỗ tựa cũng như niềm vui cho cha thì nó ngã bệnh và sau khi nằm liệt giường một tuần vì sốt cao, nó đã chết. Martin chôn cất con mình, và hết sức tuyệt vọng đến nỗi ông lằm bằm chống lại Chúa. Trong nỗi buồn của mình ông cầu nguyện lần nữa rằng ông muốn chết, trách Chúa đã cất đứa con trai mà ông yêu thương trong khi ông, già như ông, lại được sống.

Sau đó Martin bỏ, không còn đi đến nhà thờ nữa. Một ngày kia có một ông lão ở từ quê nhà của Martin đi hành hương sau tám năm vừa qua trở về từ tu viện Tróitsa, đã ghé thăm. Martin mở lòng và tâm tình với ông về nỗi buồn của mình. Ông nói: ‘Thánh nhân ơi, tôi thậm chí không còn muốn sống nữa. Tất cả điều tôi xin Chúa là rồi đây tôi sẽ chết. Giờ tôi hoàn toàn không còn hy vọng gì ở trần gian nầy nữa. ‘ Ông lão trả lời: ‘Martin, anh không có quyền nói những điều như thế. Chúng ta không thể phán đoán đường lối của Chúa. Ý muốn của Chúa quyết định mọi điều chứ không phải lý luận của chúng ta. Nếu Chúa định là con anh phải qua đời và anh được sống, thì đó phải là điều tốt nhất. Về sự đau buồn của anh – đó là vì anh muốn nó sống để anh được hạnh phúc.’ Martin hỏi ‘Vậy thì con người còn có lý do gì khác để mà sống?’ Ông lão nói ‘Sống vì Chúa, Martin, Ngài đã ban cho anh sự sống và anh phải sống vì Ngài. Chừng nào anh học được anh sống vì Ngài, lúc đó anh sẽ không còn buồn đau nữa và tất cả sẽ trở nên dễ chịu với anh.’ Martin im lặng một lúc và rồi hỏi: ‘Nhưng làm cách nào để sống cho Chúa?’ Ông lão đáp: ‘Làm thế nào để sống cho Chúa đã được bày tỏ cho chúng ta qua Đấng Christ. Anh đọc được không? Hãy mua các sách Phúc Âm và đọc đi: Anh sẽ thấy ở đó cách Đức Chúa Trời muốn anh sống. Anh sẽ thấy hết mọi thứ trong đó.’ Những lời ấy thấm sâu vào lòng của Martin, và ngay hôm đó ông đi và mua cho mình một quyển Kinh Thánh Tân Ước chữ in to và bắt đầu đọc. Mới đầu ông chỉ đọc những ngày nghỉ, nhưng khi đã bắt đầu, ông thấy Kinh Thánh làm cho lòng ông thanh thản quá nên ông đọc mỗi ngày. Đôi lúc ông chìm đắm trong việc đọc đến nỗi dầu trong đèn cháy hết trước khi ông rời khỏi sách. Ông tiếp tục đọc mỗi đêm và càng đọc thì ông càng hiểu rõ hơn những gì Chúa muốn nơi ông, và làm thế nào ông có thể sống cho Chúa. Lòng của ông ngày càng thanh thản hơn. Lúc trước, khi đi ngủ ông thường nằm xuống với trái tim trĩu nặng, thở than khi nghĩ về đứa con trai nhỏ của mình; nhưng bây giờ ông chỉ lập đi lập lại: ‘Lạy Chúa, vinh quang duy thuộc về Chúa! Vinh quang thuộc về Chúa! Nguyện ý Chúa được nên!’ Kể từ đó, toàn bộ cuộc đời của Martin thay đổi.

Trước đây, vào những ngày lễ ông thường đến uống trà ở nơi công cộng và không từ chối uống một hai ly vodka. Có khi, sau khi uống chút đỉnh với một người bạn, ông rời nhà công cộng cho dù không say nhưng thấy vui vẻ và có khi nói những lời nhảm nhí: la hét một người nào hay ăn hiếp họ. Còn bây giờ, những thứ đó không còn nữa. Cuộc đời ông trở nên thật bình an và vui mừng. Sáng ông ngồi làm việc, và khi ngày làm việc đã xong, ông lấy cây đèn khỏi tường xuống, đặt lên bàn, lấy cuốn sách khỏi kệ, mở nó ra và ngồi xuống đọc. Càng đọc ông càng hiểu nhiều hơn, rõ hơn và cảm thấy tâm trí ông được phước hạnh hơn. Có lần kia, Martin ngồi rất lâu, đắm chìm trong cuốn sách. Ông đang đọc dở Phúc Âm Lu-ca trong chương sáu đến các câu:’Ai vả các con má bên nầy, hãy đưa luôn má bên kia cho họ; còn nếu ai lấy áo ngoài của con, cũng đừng ngăn họ lấy luôn áo trong. Ai xin, hãy cho; ai đoạt lấy của cải các con, đừng đòi lại. Các con muốn người ta làm cho mình thể nào, hãy làm cho người ta thể ấy.’Ông cũng đọc các câu lời Chúa phán:’Sao các con gọi Ta: ‘Chúa, Chúa!’ mà không làm theo lời Ta phán? Ta sẽ chỉ cho các con biết người nào đến với Ta, nghe lời Ta và làm theo thì giống như ai. Người ấy giống như một người kia xây nhà, đào xuống thật sâu và đặt nền trên vầng đá. Khi nước lụt dâng lên, dòng nước chảy xiết xô vào nhà ấy cũng không lay động được, vì nhà đã xây chắc chắn. Nhưng ai nghe lời Ta mà không làm theo thì giống như một người kia xây nhà trên đất không có nền móng. Khi dòng nước chảy xiết xô vào, nhà ấy liền bị sụp và thiệt hại nặng nề.’

Khi đọc đến những chữ đó, linh hồn Martin vui mừng trong ông. Ông tháo kính đặt trên cuốn sách, tựa cùi chõ trên bàn và suy gẫm về những gì mình đã đọc. Ông đã thử sống như những lời nầy chưa, ông tự hỏi: ‘Ta đã xây nhà mình trên cát hay trên đá? Nếu nó đứng vững thì tốt. Thật dễ khi ngồi đây một mình và nghĩ rằng mình đã làm hết tất cả những gì Chúa muốn; nhưng ngay khi không còn cẩn thận giữ mình, ta lại phạm tội. Ta vẫn phải kiên trì. Lời Chúa đem lại biết bao niềm vui. Chúa ơi, xin giúp đỡ con!’ Ông đã suy nghĩ như thế và sắp đi ngủ, nhưng không thể rời cuốn sách của mình. Rồi ông đọc đến chương bảy – về người đội trưởng, về đứa con trai của bà góa, và câu trả lời cho những môn đệ của Giăng – và đọc đến phần một người Pha-ri-si mời Chúa vào nhà mình; và đọc câu chuyện người đàn bà tội lỗi xức dầu cho chân Chúa, rửa chân Ngài bằng nước mắt của bà, và Chúa đã bênh vực bà thế nào. Đến câu bốn mươi bốn, ông đọc: ‘Ngài quay lại phía người đàn bà và phán với Si-môn: “Ngươi thấy người đàn bà nầy không? Ta vào nhà của ngươi, ngươi không cho nước rửa chân; nhưng chị ấy đã lấy nước mắt thấm ướt chân Ta, rồi lấy tóc mình mà lau. Ngươi không hôn Ta, nhưng từ khi Ta vào nhà của ngươi, chị ấy luôn hôn chân Ta. Ngươi không xức dầu cho đầu Ta, nhưng chị ấy lấy dầu thơm xức chân Ta.’ Ông đọc những câu ấy và suy nghĩ: ‘Ông Si-môn không rửa chân cho Chúa, không hôn Ngài, không xức dầu lên đầu Ngài …’ Martin tháo kính ra lần nữa, đặt lên cuốn sách rồi suy ngẫm.’Người Pha-ri-si nầy giống mình thật! Ông ta chỉ nghĩ cho mình – làm sao để có chén trà, làm sao để ấm áp và thoải mái; chẳng nghĩ gì đến người khách của mình. Ông ta lo cho thân mình, còn người khách thì chẳng lo gì cả. Nhưng người khác đó là ai? Là chính Chúa! Nếu Chúa đến nhà, phải chăng mình cũng sẽ đối xử giống như thế?

Rồi Martin dựa đầu trên hai cánh tay và ngủ thiếp đi. Ông bỗng nghe một tiếng gọi: ‘Martin!’, như có ai đó đang hà lời nói trên tai ông. Choàng tỉnh dậy, ông hỏi ‘Ai đó?’ Ông lăn trở và nhìn vào cửa sổ; chẳng có ai cả. Tiếng nói ấy lại gọi lẫn nữa. Rồi ông nghe thật rõ: ‘Martin, Martin! Ngày mai con hãy nhìn ra đường, vì Ta sẽ đến.’ Martin thức dậy, từ chiếc ghế đứng dậy và dụi mắt, nhưng không biết mình có nghe những lời nói đó khi đang mơ hay đang tỉnh. Ông tắt đèn rồi nằm xuống ngủ. Sáng hôm sau ông thức dậy trước khi trời sáng và sau khi cầu nguyện ông nhóm lửa và chuẩn bị món súp bắp cải và cháo yến mạch. Rồi ông đốt ấm sa-mô-va, đem tạp dề và ngồi xuống bên cửa sổ để làm việc. Khi đang ngồi làm việc, Martin nghĩ về những gì đã xảy ra đêm qua. Có lúc với ông dường như là một giấc mơ, và có lúc ông nghĩ rằng mình đã thật sự nghe tiếng nói. Ông thầm nghĩ ‘những chuyện như vậy đã xảy ra trước đây.’ Cứ như thế ông ngồi bên cửa sổ, nhìn ra ngoài đường nhiều hơn là làm việc, và mỗi khi có ai đi qua trong tiếng giày ủng lạ, ông sẽ khom người và nhìn lên, như là không phải để thấy chân mà cũng là để thấy mặt của người đi qua. Một người khuân vác đi qua trong đôi ủng mới; rồi đến một người khiêng nước. Giờ đây một người lính già thời Nicholas cai trị đang đến gần cửa sổ tay cầm chiếc thuổng. Martin nhận ra ông ta qua đôi ủng, bằng nỉ cũ kỷ, tồi tàn, bọc da. Ông già có tên là Stephnitch: một thương gia láng giềng vì lòng từ thiện đã cho ông ở trong nhà mình và ông có trách nhiệm giúp cho người khuân vác. Ông bắt đầu dọn tuyết đằng trước cửa sổ nhà Martin. Martin liếc nhìn ông ta và rồi tiếp tục làm việc của mình. ‘Chắc mình già nên điên rồi,’ Martin nói và cười về trí tưởng tượng của mình. ‘Stephnitch đến để dọn tuyết, và mình phải cần tưởng tượng ra là Đấng Christ đang đến để thăm mình. Thật mình đúng là một ông già lẩm cẩm!’ Thế nhưng sau khi may mười mấy mũi ông lại cảm thấy bị cuốn hút để nhìn ra cửa sổ. Ông thấy Stephnitch dựa chiếc thuổng vào tường, và hoặc đang nghỉ ngơi hoặc đang cố gắng để được ấm. Ông ta già và yếu sức, rõ ràng là không có đủ sức cho dù chỉ là để dọn tuyết. Martin thầm nghĩ ‘Hay là mình gọi ông ta vào và cho ông một ít trà?’ ‘Ấm trà sa-mô-va mới vừa sôi.’ Ông ấn cây dùi vào chỗ của nó và đứng dậy; đặt ấm nước Sa-mô-va lên bàn và pha trà. Rồi ông lấy ngón tay gõ nhẹ lên cửa sổ. Stephnitch quay lại và đến bên cửa sổ. Martin ra hiệu cho ông ta vào nhà và đích thân ra mở cửa. Ông nói ‘Ông vào và sưởi cho ấm một chút. Tôi chắc là ông đang bị lạnh.’ Stephnitch trả lời ‘Cầu Chúa ban phước cho ông! Xương tôi đang rất đau.’ Ông bước vào, trước hết giũ sạch tuyết và sợ để lại dấu trên sàn ông bắt đầu lau chân mình; nhưng khi đang làm như thế ông loạng choạng suýt ngã. ‘Đừng lo chùi chân,’ Martin nói ‘Tôi sẽ lau sàn nhà – đó là việc trong ngày mà. Ông bạn ơi, hãy lại ngồi và uống ít trà.’ Rót đầy hai tách, ông đưa một cái cho người khách của mình và đổ trà của mình ra chiếc cốc, bắt đầu thổi lên đó. Stephnitch uống hết cốc trà của mình và úp nó ngược lại, đặt miếng đường còn lại lên trên. Bắt đầu nói lời cám ơn nhưng rõ ràng là ông muốn uống thêm. ‘Ông dùng một cốc nữa đi,’ Martin nói và rót đầy vào cốc của người khách và cho chính mình. Nhưng đang lúc uống trà, Martin vẫn tiếp tục nhìn ra ngoài đường. Người khách của ông hỏi ‘Ông đang chờ ai phải không?”

Tôi có đang chờ ai chăng? Phải rồi, bây giờ tôi thật xấu hổ mà kể cho anh. Không phải tôi thật sự chờ ai đó; nhưng tối qua tôi đã nghe một cái gì đó mà nó cứ vấn vương mãi trong tâm trí. Đó có phải là một giấc mơ hay chỉ là do trí tưởng tượng hay không, tôi không thể nói được. Anh bạn ơi, hôm qua tôi đã đọc Phúc Âm, về Chúa là Đấng Christ, biết được Ngài đã chịu khổ và đã sống trên trần gian như thế nào. Chắc là anh cũng đã nghe kể về điều đó rồi, có phải không? Stephnitch trả lời ‘Tôi đã nghe kể về điều đó rồi, nhưng tôi là người dốt nát và không biết đọc.’ ‘Vâng, anh biết không, tôi đang đọc về những gì Ngài làm trên đất. Đến cái phần Ngài đến nhà của một người Pha-ri-si, người nầy không tiếp đón Ngài tốt. Anh bạn ơi, khi tôi đọc điều đó, tôi đã nghĩ rằng người đó đã không tiếp đón Đấng Christ là Chúa với vinh dự thích đáng. Tôi nghĩ, giá như việc như thế xảy ra cho một kẻ như tôi, thì tôi sẽ tiếp rước Ngài như thế nào! Nhưng cái người đó đã không đón rước Ngài gì cả. Vâng, anh bạn ơi, khi nghĩ điều nầy, tôi bắt đầu ngủ gà ngủ gật, thì nghe có ai đó gọi tên tôi. Tôi tỉnh dậy và nghĩ mình đã nghe ai đó thầm thì “Hãy chờ ta; mai Ta sẽ đến.” Việc đó xảy ra hai lần. Tôi nói thật với anh, nó thấm sâu trong tâm trí tôi đến nỗi tôi thấy xấu hổ về mình, tôi vẫn tiếp tục chờ Ngài, chờ Chúa yêu dấu!’ Stephnitch lắc đầu trong im lặng, uống cạn hết cốc trả và để cạnh bên; nhưng Martin đứng lên và rót đầy lần nữa cho ông.’

Anh hãy uống thêm cốc nữa đây nầy, Chúa ban phước cho anh! Và tôi cũng nghĩ lúc Chúa sống trên đất Ngài không khinh dể ai nhưng đã đến nhiều với dân dã. Ngài đến với những người dân bình thường, và đã chọn các môn đệ từ giữa những người như chúng ta, những con người lao động, tội lỗi như chúng ta. Ngài đã phán “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên.” Ngài phán “Các ngươi gọi Ta là Chúa, và Ta sẽ rửa chân cho các ngươi.” Ngài phán “Ai muốn làm đầu phải làm đầy tớ cho tất cả: Bởi vì “phước thay cho những người nghèo khó, khiêm nhường, hiền lành và có lòng thương xót. “‘ Stephnitch quên cốc trà mình. Ông là một người già dễ cảm động để rơi lệ, và khi ngồi lắng nghe, nước mắt đã rơi ràn rụa trên đôi má của ông. Martin nói ‘Nào, anh hãy uống thêm đi nào.’ Nhưng Stephnitch làm dấu thánh giá, cám ơn ông, dọn chiếc cốc trà của mình và đứng lên. Ông nói ‘Cám ơn anh, Martin Avdéiteh, anh đã cho tôi đồ ăn và an ủi tôi cả linh hồn và thân thể.’ Martin nói ‘Không có chi. Lần khác anh hãy đến nữa nhé. Tôi rất vui được tiếp anh.’ Stephnitch rời khỏi; và Martin rót phần trà còn lại ra và uống hết. Rồi ông dọn dẹp ấm, cốc và ngồi xuống làm việc, khâu phần sau của một chiếc ủng. Khi đang khâu, ông vẫn tiếp tục nhìn ra cửa sổ, mong chờ Đấng Christ, nghĩ về Ngài đang khi làm việc. Và tâm trí tràn đầy những lời dạy của Đấng Christ. Hai người lính đi qua: một người trong đôi ủng của nhà nước, còn người kia trong đôi ủng của chính mình; rồi ông chủ của căn nhà cạnh bên, trong đôi giày chống nước sáng trưng; rồi một anh thợ bánh vác một cái thúng. Tất cả những người đó đã đi qua. Rồi một người đàn bà đi đến, mang vớ len và giày của nông dân. Cô ta đi qua cửa sổ, nhưng dừng lại bên bức tường. Martin ngước nhìn cô qua cửa sổ, và thấy rằng cô là một khách lạ, ăn mặc tồi tàn, và có một đứa bé trên tay. Cô dừng lại bên bức tường, lưng quay ra hứng gió, cố quấn lấy đứa bé cho dù chẳng có gì để đắp cho nó. Cô chỉ có áo quần mùa hè trên mình và chúng vừa cũ vừa mòn. Xuyên qua cửa sổ Martin nghe tiếng khóc của đứa bé, và cố dỗ dành nó, nhưng không thể được. Martin đứng lên, bước ra khỏi cửa và lên những bậc thềm, ông gọi cô. ‘Con thân mến, con thân mến, ta nói đây!’ Người đàn bà nghe và quay lại. ‘Sao cô lại đứng bên ngoài với cháu bé trong lạnh lẽo? Hãy vào trong. Cô có thể quấn cho cháu tốt hơn trong một nơi ấm áp. Hãy đi đường nầy! ‘ Người đàn bà ngạc nhiên thấy một ông già trong chiếc tạp dề, kính mắt trên mũi gọi mình, nhưng cô đã theo ông vào nhà. Họ đi xuống những bậc thêm, vào trong căn phòng nhỏ, và ông già dẫn cô đến giường. ‘Lại ngồi đây đi cháu, gần bên lò sưởi. Sưởi ấm cho cháu và hãy cho cháu bé ăn.’ ‘Cháu không còn sữa. Từ sáng sớm đến giờ cháu chẳng được ăn gì cả,’ người đàn bà nói, nhưng vẫn bồng đứa bé lên ngực nàng.

Martin lắc đầu. Đem ra một cái chén và một ít bánh mì. Rồi mở cửa lò và đổ một ít súp bắp cải vào chén. Lấy nồi cháo ra, nhưng cháo chưa chín, rồi ông trải khăn trên bàn và chỉ dọn món súp và bánh mì. ‘Ngồi xuống và ăn đi cháu, để ta trông chừng cháu bé. Tại sao ư, xin Chúa thương, ta cũng có con, ta biết trông nom chúng thế nào.’Người đàn bà đứng dậy, ngồi vào bàn và bắt đầu ăn, trong khi Martin đặt cháu bé trên giường và ngồi bên cạnh nó. Ông tặc lưỡi và tặc lưỡi nhưng vì không có răng nên không thể làm tốt được và đứa bé tiếp tục khóc. Rồi Martin thử lấy ngón tay chạm vào thằng bé; đụng vào mồm nó rồi rút ra ngay và làm đi làm lại nhiều lần. Ông không để thằng bé ngoạm vào ngón tay mình, vì nó dính đầy sáp giày đen thui. Nhưng mới đầu thằng bé yên lặng nhìn cái ngón tay rồi bắt đầu cười. Martin thấy hết sức vui. Người đàn bà ngồi ăn và nói chuyện, cô ta kể cho Martin nghe cô là ai và từ đâu đến. Cô nói ‘Cháu là vợ của một người lính, họ đưa chồng cháu đi một nơi nào đó xa lắm đã tám tháng nay, từ đó cháu chẳng còn nghe tin tức gì từ anh ấy cả. Cháu làm việc nấu nướng trước khi sinh con, nhưng rồi họ không muốn giữ cháu lại khi cháu có con. Ba tháng nay cháu đã cố gắng hết sức những không thể tìm được việc làm, và cháu phải bán hết mọi thứ để có mà ăn. Cháu cố gắng tiếp tục xin làm vú nuôi, nhưng chẳng ai muốn nhận; họ bảo trông cháu quá gầy gò và đói khát. Giờ đây cháu vừa gặp được vợ của một nhà buôn (một bà trong làng của chúng con đang làm cho bà ấy) và bà ấy hứa là sẽ nhận cháu. Cháu nghĩ là cuối cùng mọi việc đã ổn, nhưng bà ấy bảo con chờ tuần tới hãy đến. Chỗ của bà khá xa, và cháu bị kiệt sức, thằng bé đói gần chết, thật tội nghiệp. Rất may là bà chủ nhà thương hại và cho chúng con ở miễn phí, nếu không cháu không biết phải làm gì.’ Martin thở dài, hỏi ‘Cháu có quần áo ấm hơn không?’ Cô nói ‘Làm sao cháu có quần áo ấm được? Bởi hôm qua cháu đã cầm chiếc khăn quàng cuối cùng để được 6 xu.’ Rồi cô đến bồng đứa bé, Martin đứng lên. Ông đến và nhìn vào một vào thứ treo trên tường và đem lại một áo choàng cũ. Ông nói:’Cô dùng chiếc áo nầy đi, cho dù nó là đồ cũ, nhưng dùng để quấn cháu bé được đấy.’ Người đàn bà nhìn chiếc áo, rồi nhìn cụ già, cầm lấy áo rồi bật khóc. Martin quay đi, và mò mẫm dưới gầm giường lôi ra một chiếc rương nhỏ. Sờ soạng trong đó và đến ngồi đối diện với người đàn bà. Và người đàn bà nói: ‘Nguyện Chúa ban phước cho bác. Chắc là Đấng Christ đã đưa con tới trước cửa sổ nhà bác, nếu không thì thằng bé đã chết lạnh rồi. Hồi cháu mới đi, trời còn dịu, nhưng nhìn kìa, bây giờ trời trở lạnh làm sao. Chắc chắn là Đấng Christ đã khiến cho bác nhìn ra cửa sổ và thương xót cháu, một con người cùng khốn!’ Martin mỉm cười và nói ‘Đúng như vậy, chính Ngài đã khiến ta làm điều đó. Không có lý do nào chính đáng làm cho ta nhìn ra ngoài cả.’ Và ông kể cho người đàn bà nghe giấc mơ của ông, ông nghe tiếng Chúa hứa sẽ đến thăm viếng ông ngày hôm đó. ‘Ai biết được? Mọi thứ đều có thể,’ người đàn bà nói, và đứng lên, khoác cái áo lên vai, quấn áo quanh mình và quanh cháu bé. Rồi cúi gập người cám ơn Martin lần nữa. Martin đưa cho cô 6 xu để chuộc lại chiếc khăn quàng, ông nói ‘Vì Chúa, cháu hãy cầm lấy’. Người đàn bà làm dấu thánh giá, và Martin cũng làm thế và nhìn cô ra đi. Sau khi người đàn bà đi rồi, Martin ăn một ít súp bắp cải, dọn dẹp mọi thứ rồi ngồi xuống làm việc trở lại. Ông ngồi và làm việc, nhưng không quên cái cửa sổ, và mỗi lần có một cái bóng rơi trên đó là ông lại ngước nhìn lên để xem ai đi qua. Những người ông biết và những người lạ bước qua, những chẳng có ai đáng chú ý cả.

Sau một lúc Martin thấy một bà bán táo đứng ngay trước cửa sổ của mình. Bà có một chiếc giỏ lớn, những dường như trong đó không còn nhiều táo; chắc hẳn bà đã bán hầu hết số táo của bà. Trên lưng bà có một bao đựng đầy những vỏ bào mà bà đem về nhà. Chắc là bà đã nhặt nhạnh ở một nơi người ta đang xây cất. Rõ ràng cái bao tải làm cho bà bị đau và bà muốn chuyển nó từ vai nầy sang vai kia, cho nên bà đặt nó xuống trên lối đi và để cái thúng trên một cây cột, bắt đầu lắc dâm bào trong bao tải xuống. Đang khi bà làm việc đó, một thằng bé đội mũ lưỡi trai rách tả tơi chạy đến, giật một quả táo trong thúng và cố gắng chuồn đi; nhưng người đàn bà nhận thấy và quay lại, tóm lấy tay áo thằng bé. Nó bắt đầu vùng vẫy, cố gắng thoát thân, nhưng người bà lão đã giữ chặt nó bằng cả hai tay, hất chiếc mũ ra khỏi đầu và nắm tóc nó. Thằng bé hét lên và bà lão mắng nhiếc. Martin thả chiếc dùi xuống và không chờ cho chiếc dùi có cắm vào vị trí của nó, ông lao ra khỏi cửa. Loạng choạng bước lên các bậc thềm ông chạy ra đường và trong lúc vội vàng ông đánh rơi cặp kính. Bà lão vẫn đang lôi tóc thằng bé, mắng chửi nó và đe dọa sẽ đem nó đến cảnh sát. Thằng bé vùng vẫy và chống cự, nói ‘Cháu đâu có lấy táo. Tại sao bà đánh cháu? Buông cháu ra!’ Martin tách họ ra. Ông nắm tay thằng bé và nói ‘Để cho nó đi đi, bà ngoại ơi. Vì Chúa Cứu Thế hãy tha thứ cho nó.’ ‘Bà sẽ cho nó biết tay, để nó nhớ chuyện nầy suốt một năm! Bà sẽ đưa thằng tội phạm nầy đến cảnh sát!’ Martin bắt đầu nài nỉ bà lão. ‘Thả nó ra đi, ngoại ơi. Nó sẽ không làm việc đó nữa đâu. Vì danh Chúa hãy để cho nó đi!’ Bà lão thả ra, và thằng bé muốn chạy thoát nhưng Martin chận nó lại, nói ‘Xin lỗi bà ngoại đi cháu! Và đừng làm điều đó nữa nhá. Ta thấy cháu lấy trái táo.’ Thằng bé bắt đầu khóc và xin lỗi. ‘Đúng rồi. Và đây là một trái táo dành cho cháu, Martin lấy một quả táo từ trong giỏ, đưa cho thằng bé bà nói: ‘Tôi sẽ trả tiền cho bà, bà ngoại.’ Bà lão nói ‘Làm cách đó là ông đang làm hư bọn trẻ tội phạm đây. Nó phải bị đánh đòn để nhớ chuyện nầy suốt một tuần.’

Martin nói ‘Ô, bà ngoại ơi, đó là cách của chúng ta, chứ không phải cách của Chúa. Nếu nó phải bị đòn vì cái tội ăn cắp một quả táo thì chúng ta phải bị gì vì những tội lỗi của chúng ta?’ Bà lão nín lặng. Và Martin kể cho bà câu chuyện ngụ ngôn về một lãnh chúa tha số nợ rất lớn cho người đày tớ của mình, và khi đi ra, người nầy đã túm lấy cổ của một người mắc nợ mình. Bà lão nghe hết tất cả và thằng bé cũng đứng đó lắng nghe. Martin nói ‘Chúa muốn chúng ta tha thứ, nếu không chúng ta sẽ không được tha thứ. Hãy tha thứ cho mọi người, nhất là tha cho một thằng bé trẻ người thiếu suy nghĩ.’ Bà lão lắc đầu, thở dài, nói ‘Đúng như vậy, nhưng chúng nó đang trở nên hư hỏng khủng khiếp.’ Martin đáp ‘Vậy những người già như chúng ta phải cho chúng nó thấy những cách tốt hơn.’ Bà lão nói ‘Đó chỉ là những gì tôi nói. Tôi có bảy đứa con, và giờ chỉ còn lại đứa con gái.’ Và bà lão bắt đầu kể mình sống ở đâu và sống như thế nào với con gái của bà, và bà có bao nhiêu cháu ngoại. Bà nói ‘Giờ đây tôi chỉ còn chút hơi tàn nhưng phải làm việc vất vả để lo cho bầy cháu ngoại; chúng xinh xắn, dễ thương lắm. Không có đứa con nào tới thăm tôi, chỉ có bọn nhỏ. Con bé Annie bây giờ sẽ không đổi bà ngoại với bất kỳ ai. “Bà ngoại đây nè, bà ngoại thương yêu, bà ngoại yêu dấu.”‘ Và bà lão hoàn toàn mềm lòng với suy nghĩ đó. Bà nói ‘Dĩ nhiên, chỉ vì nó dại khờ thôi, xin Chúa giúp cho nó, bà muốn ám chỉ thằng bé. Khi bà lão sắp nâng cái bao tải lên lưng, thằng bé nhà tới trước bà, nói ‘Ngoại ơi, để cháu vác nó cho ngoại, con cũng đi đường đó.’

Bà lão gật đầu và đặt bao tải lên lưng thằng bé, và họ cùng nhau đi xuống con đường, bà lão quên mất chuyện hỏi Martin trả tiền cho quả táo. Martin đứng và nhìn theo khi họ vừa đi vừa chuyện trò với nhau. Khi họ đã đi khuất tầm mắt Martin quay vào nhà. Tìm lại được cặp kính chưa vỡ trên các bậc thềm, ông lượm cái mũi dùi rồi ngồi xuống làm việc lại. Ông làm việc một chút, nhưng không lâu sau đó, không thể thấy được để đưa cây gai xuyên qua các lỗ trên da giày; và giờ đây, ông nhận thấy những người thắp đèn đang trên đường đi thắp những ngọn đèn đường. Ông nghĩ ‘Hình như tới giờ thắp đèn rồi’. Vì vậy, ông tỉa tim đèn, treo đèn lên và ngồi xuống lần nữa để làm việc. Ông đã làm xong một chiếc ủng, lật qua lật lại ngắm nghía. Tốt rồi. Sau đó ông gom góp dụng cụ lại, thu dọn những mảnh vụn, dẹp bỏ những sợi lông cứng, chỉ và dùi, và lấy cây đèn xuống, đặt lên bàn. Rồi ông lấy sách các Phúc Âm ra khỏi kệ. Ông có ý mở sách ngay cái chỗ được đánh dấu ngày hôm trước bằng một miếng da mềm, nhưng cuốn sách lại được mở ở một chỗ khác. Lúc Martin mở sách, giấc mơ ngày hôm qua lại trở về trong tâm trí, và mới vừa nghĩ đến nó thì ông nghe dường như có tiếng chân, như thể có ai đó đang đi đằng sau ông. Martin quay lại, và thấy như có ai đang đứng trong góc tối, nhưng ông không thể nhận ra đó là ai. Và một giọng nói thì thầm trong tai ông: ‘Martin, Martin, con không biết Ta sao?’ ‘Ai đó?’ Martin lẩm bẩm. Giọng nói vang ra ‘Đó là Ta.’ Và Stephnitch bước ra khỏi góc tối, mỉm cười và biến đi như một đám mây không còn nhìn thấy được nữa. Giọng nói lại vang lên ‘Đó là Ta’. Và người đàn bà bồng đứa bé trên tay bước ra khỏi bóng tối, mỉm cười và đứa bé cười vang và rồi cả hai cũng biến đi. Tiếng nói lại vang lên lần nữa ‘Đó là Ta.’ Và bà lão và thằng bé cầm trái táo bước ra và cả hai đều mỉm cười, rồi cũng biến mất. Linh hồn Martin hết sức vui mừng. Ông làm dấu thánh giá, đeo kính lên và bắt đầu đọc sách Phúc Âm, đúng ngay cái chỗ được mở ra; ở đầu trang ông đọc được câu ‘Vì ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống; Ta là khách lạ, các ngươi tiếp rước Ta.’ Và ở cuối trang, ông đọc được câu ‘Hễ các ngươi đã làm việc đó cho một người trong những người rất hèn mọn nầy của anh em Ta, ấy là đã làm cho chính mình Ta vậy’ (Ma-thi-ơ 25:35,40). Và Martin hiểu rằng giấc mơ của mình đã thành sự thật; và Cứu Chúa đã thật sự đến ông mình ngày hôm đó, và ông đã tiếp đón Ngài.

Chuyển ngữ: Ân Điển

Nguồn: Lev Tolstoy (1885)

Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com

Bình Luận:

You may also like