Giáo sư David (Dubby) Rodda là tiến sĩ khoa học động vật và gen ở Guelph (Canada), chuyên về phương pháp thông kê về gen và lai giống động vật. Khi đi học tiến sĩ, ông đã tưởng các giáo sư sẽ trình bày nhiều bằng chứng thực nghiệm để chứng minh cho niềm tin rộng rãi vào thuyết tiến hóa. Nhưng trong tất cả các lớp học và bài báo về tiến hóa mà mình đã đọc, ông hoàn toàn không tìm thấy bằng chứng nào! Ông thấy rằng tin có một Đấng Tạo Hóa đã thiết kế tạo dựng muôn loài thật dễ hơn tin rằng tế bào sống tự xuất hiện và tự tiến hóa thành mọi loài. Khi hỏi giáo sư của mình điều này, ông được câu trả lời là “Vâng, tất nhiên là dễ hơn rồi—nhưng ai muốn tin vào Chúa?” Với kinh nghiệm gen và lai giống động vật của mình, giáo sư Rodda nhận thấy ‘thuyết tiến hóa’ thật sự là một câu chuyện cổ tích, không liên quan gì đến thực tế thực tiễn. Ông hoàn toàn tin tưởng rằng mọi sinh vật sống đều có nguồn gốc từ một loài trong Sáng thế ký, được tạo ra ban đầu hoàn hảo cách đây tương đối ngắn. Đây chính xác là những gì Kinh thánh dạy!
Tinh Hoa Của Cornwall
David (Dubby) Rodda tốt nghiệp ngành Khoa Học Nông Nghiệp từ Đại Học Reading ở UK, nơi cũng trao cho ông bằng Thạc Sĩ Khoa Học Gia Cầm. Ông nhận bằng Tiến Sĩ về Khoa Học Động Vật và Gen từ Gluelph, Canada, chuyên về phương pháp thống kê về gen và giống động vật. Sau đó ông có kinh nghiệm thực tế trong việc hướng dẫn một chương trình nhân giống gà tây (turkey) trong trang trại gia đình.

Hình 1. Tiến sĩ David (Dubby) Rodda tại nhà máy kem của gia đình Rodda, gần Redruth, Cornwall. Ảnh chèn: một bữa trà điển hình ở Cornwall, với bánh scone tươi phủ mứt và kem đặc.
Rodda là một cái tên quen thuộc trong ngành bơ sữa ở Cornwall (hình 1 và 2), nhưng nó không phải luôn nổi tiếng. Dubby nói nó bắt đầu “chỉ là một kinh doanh gia đình trong một phòng của nông trại.” Sinh năm 1946, Dubby miêu tả mình là một “nhà khoa học về hưu, nhà di truyền học kiêm người nhân giống gia cầm, người tin vào thuyết sáng thế, và nhà truyền giáo.” Mặc dùng ông chưa hề trở thành đối tác kinh doanh, hồi còn thiếu niên Dubby tham dự vào việc kinh doanh kem của dòng họ Rodda.
Việc cầu nguyện luôn là một phần không thể thiếu của gia đình Rodda: họ luôn đặt Đức Chúa Trời lên đầu. Theo lời Dubby: “chúng tôi đã nhiều lần chứng kiến sẽ dẫn dắt đặc biệt của Chúa.”
Một trăm năm trước, vào năm 1922, Fanny. Rodda (bà của Dubby) tìm ra cách để giữ kem được lâu hơn. Trước khi có máy lạnh, kem thường hư nhanh chóng, và bà Fanny tìm cách giải quyết vấn đề này. Là một người phụ nữ cầu nguyện, ý tưởng đến với bà rằng tiệt trùng kem trong hũ có thể giúp giữ chúng khỏi hư. Bà biết điều này có hiệu quả với trái cây, và khi bà thử nó, bà thấy kem giữ được ít nhất 3 tháng!
Phát hiện của bà Fanny dẫn đến việc thành lập doanh nghiệp gia đình. Nó phát triển chậm rãi (bị gián đoạn vào thế chiến 2 vì chế độ phân phối sữa), cho đến khi nhà Rodda không chỉ cung cấp cho thị trường địa phương mà còn cả các hãng hàng không, siêu thị quốc gia, và cả thị trường nước ngoài. Từ năm 1952, nhà Rodda cũng nuôi và nhân giống gà tây. Trong việc này, giáo sư Dubby đóng vai trò tư vấn khoa học chủ chốt, như ta sẽ thấy sau đây.

Hình 2. Các tòa nhà ở nhà máy sữa của công ty Rodda
Lời Kêu Gọi Truyền Giáo
Lớn lên trong gia đình Cơ Đốc, Dubby có trải nghiệm tin nhận Chúa sớm, lúc mới 8 tuổi. Nhưng tới 14 tuổi ông mới cảm nhận chắc chắn mình đã được cứu. Ông được truyền cảm hứng bởi một nhà truyền giáo tiên phong ở Tanzania, tiến sĩ Paul White, người viết một loạt sách tên là Bác Sĩ Trong Rừng Rậm.1
Khi Dubby 15 tuổi, ông được thách thức đến với các nhóm người châu Phi chịu ảnh hưởng của Hồi Giáo. Thử thách này đến từ người chú làm truyền giáo, người nói rằng rất ít giáo sĩ đi đến với họ. Câu hỏi của người chú là: “Nếu Chúa muốn cháu đi, cháu có sẵn sàng không?” Dubby không thật sự hào hứng với việc này, nhưng dù sao đi nữa vẫn thừa nhận “Bởi vì Chúa Giê-xu là Chủ của đời sống mình, nếu đây là điều Ngài muốn mình làm, mình không có lựa chọn nào khác trừ việc nói ‘Vâng’”. Ông quyết định chọn các mục tiêu học tập của mình với ý thức truyền giáo.
Khi Dubby bắt đầu học tiến sĩ về gen và lai giống động vật, ông đã tin chắc rằng Đức Chúa Trời tạo dựng mọi thứ, nhưng không chắc rằng Ngài có dùng quá trình tiến hóa hay không. Ông đã kỳ vọng các giáo sư của mình sẽ trình bày cho ông rất nhiều các bằng chứng thực nghiệm để chứng minh cho sự tin tưởng rộng rãi vào thuyết tiến hóa. Nhưng, ông nói, trong tất cả các lớp và báo cáo khoa học về thuyết tiến hóa mà ông đọc, ông hoàn toàn chẳng thấy cái gì cả!
Vậy nên ông hỏi các giáo sư của mình về thuyết tiến hóa. Một giáo sư cho ông mượn một quyển sách về abiogenesis (sự hình thành sự sống từ các chất không sống, hay sự tiến hóa hóa chất – chemical evolution, ý tưởng rằng sự sống đầu tiên tự mình xuất hiện từ các hóa chất không sống)2. Tuy nhiên, Dubby thấy nó quá bất khả thi về mặt toán học để tin.
Dubby mạnh dạn đề xuất “Chẳng phải tin vào Chúa là khả thi hơn sao?” Câu trả lời của ông giáo sư đã tác động mạnh mẽ đến ông: “Vâng, đúng vậy, tất nhiên là như vậy. Nhưng mà ai muốn tin vào Chúa?” Dubby nói: “Lựa chọn từ chối tin Chúa của ông ấy rõ ràng là bất chấp các bằng chứng vượt trội.”
Được Khích Lệ Về Thuyết Sáng Thế
Vào khoảng thời gian này, Dubby rất ấn tượng bởi quyển sách của A.E. Wilder-Smith3, một trong những nhà tiên phong của phong trào khoa học theo thuyết sáng thế hiện đại, người có những 3 bằng tiến sĩ. Quyển sách của ông miêu tả những hóa chất phức tạp của sự sống, lượng thông tin không thể tưởng tượng được mã hóa trong những tế bào sống đơn giản nhất, và chuyện sự sống xuất hiện cách ngẫu nhiên là bất khả thi như thế nào.
Đến Cánh Đồng Truyền Giáo
Sau khi hoàn thành nghiên cứu Tiến Sĩ của mình năm 1975, Dubby được đào tạo bởi tổ chức New Tribes Mission4 (NTM – Truyền Giáo Cho Các Bộ Lạc Mới) ở Bắc Mỹ trong 2.5 năm. Rồi ông dành 28 năm truyền giáo ở Senegal, 15 năm đầu dạy tiếng Pháp cho các giáo sĩ và truyền rao Tin Lành cho những tri thức địa phương. Ông phát hiện ra tầm quan trọng của việc dạy Kinh Thánh theo trình tự thời gian, bắt đầu từ Sáng Thế Ký, sau khi nhận ra rằng Chúa Giê-xu dạy các môn đồ mình cách này (Lu-ca 24:13-35). Một bộ phim Dubby làm về phương pháp này đã giúp ích rất nhiều cho những người truyền giáo cho người Hồi Giáo khác. Một giáo sĩ NTM khác, Trevor McIlwain, cũng giới thiệu phương pháp giảng dạy này cho người Philippine và đạt được thành công lớn sau khi nhận ra người địa phương không thấy tầm quan trọng của Tin Lành trừ khi họ được dạy từ Sáng Thế Ký.
Trong thời gian này, Dubby gặp Anna, người vợ tương lai của ông, cũng làm việc tại NTM. Anna dành 9 năm phân tích ngôn ngữ của bộ lạc Balanta Ganja ở Tây Phi. Họ kết hôn năm 1992, và sống giữa những người Hồi Giáo Saafi tới năm 2008, học ngôn ngữ và văn hóa của họ, và chuẩn bị nền móng cho những giáo sĩ tương lai.
Phát Triển Một Giống Gà Tây Mới

Hình 3. Trước năm 1971, cả con trống và mái của giống gà tây trắng Rodda đều trông như thế này khi nở.
Chăn nuôi gà tây thương phẩm từ lâu đã gồm các giống gà tây toàn bộ lông trắng. Đó là vì sắc tố đen trong lông gà, như ở gà tây nguyên thủy, để lại gốc sẫm màu sau khi giết mổ, điều mà người tiêu dùng thấy không đẹp mắt.
Sẽ rất hữu ích cho người nông dân nếu gà con trống và mái có thể được phân biệt dễ dàng bằng mắt thường ngay khi nở thay vì vài tuần sau. Nhưng với giống gà lông trắng thời đó, gà con thường nhìn y như nhau (hình 3). Điều này nghĩa là chúng không thể bị phân loại theo giới tính khi vừa sinh mà không mất chi phí cho chuyên gia phân loại.
Nếu gà tây mái đen5 truyền thống được lai với một giống gà tây nâu, gà con trống và mái sẽ nhìn khác nhau vì gen lông màu nâu dính với gen giới tính. Nhưng gà tây lớn lên sẽ có lông đen, dẫn đến chân lông xấu xí. Nói tóm lại, không có giống gà nào kết hợp các đặc tính lông trắng và dễ phân loại đực cái lúc mới sinh.
Ông Carol Harvey, người quản lý trang trại gà tây Rodda (hình 4) muốn thay đổi điều này. Năm 1971, Carl phát hiện ra một cặp gà song sinh nở ra từ cùng một trứng, điều chưa từng thấy trước đây. Một con cái có điểm đen trên đầu, trong khi con đực không có. Carol tự hỏi liệu chuyện này có thể được gây ra bởi gen màu dính kèm với gen giới tính. Sau 6 năm thực nghiệm lai giống, ông đã phát triển các giống gà tây với các mảng màu to hơn, tối hơn, lan rộng hơn ở gà con, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy chúng đi kèm với giới tính. Màu sắc giống nhau hiện diện ở cả gà trống lẫn gà mái.

Hình 4. Giáo sư Dubby với Carol Harvey, cựu quản lý gà tây tại trang trại Rodda, người đóng vai trò lớn trong chương trình nhân giống gà tây thành công.
Ngay trước khi từ bỏ dự án năm 1977, giáo sư Dubby đã có một khoảnh khắc “bừng sáng”! Ông giải thích:
Tôi đột nhiên nhận ra tầm quan trọng của màu tối ở những chú gà con này. Gà tây trắng bình thường vẫn mang trong mình những chỉ dẫn gen để tạo ra sắc tố màu trong lông chúng, nhưng gen (màu trắng) của chú gà con này đã bị tắt (n.d: tức gen màu trắng vẫn có nhưng không hoạt động).
Màu tối ở lông gà con của chúng tôi là kết quả của những chỉ dẫn gen tạo màu sắc này được bật lại (hoạt động lại)—nhưng chỉ khi phôi đang phát triển trong trứng. Khi nở, chúng lại được tắt, và lông hình thành sau đó chỉ có màu trắng.
Biết về gen màu nâu liên kết với gen giới tính ở các giống khác, giáo sư Dubby thấy tiềm năng cho một bước đột phá. Ông nói:
Tôi nhận ra rằng bằng cách kết hợp các giao phối phù hợp, có khả năng chúng ta cuối cùng sẽ có thể tạo ra những con trống màu đen và con mái màu nâu khi vừa nở, để có thể dễ dàng phân loại gà con. Nhưng sau đó, tất cả lông tạo ra khi chúng lớn lên đều sẽ màu trắng.

Hình 5. Kết quả cuối cùng của 15 năm nỗ lực tạo giống. Người nông dân trang trại có thể phân biệt được hai con mái màu nâu bên trái với những con trống màu đen bên phải. Cả bốn con đều sẽ lớn lên chỉ có lông màu trắng khi trưởng thành.
Trước khi tìm nguồn cung cấp gà tây có gen màu nâu, Dubby nhận ra rằng trước tiên cần phải làm tối màu ở gà con hơn nữa bằng cách loại bỏ (lai tạo cho mất đi) các gen làm loãng màu. Điều này cũng có nghĩa là xác định và loại bỏ các gen khác có thể làm rối kết quả. Thêm vào đó, cần phải giảm tần suất các gen ‘bị phá vỡ’ do đột biến. Điều này cần các chương trình nhân giống tỉ mỉ và công phu, bao gồm hàng nghìn con gà tây.
Carol liên tục cầu nguyện xin sự khôn ngoan. Qua thêm nhiều năm kiên nhẫn thử nghiệm với gà tây từ những nguồn khác, ông đã thu được một gen màu nâu liên kết giới tính với các đặc điểm phù hợp và đưa vào đàn gà tây. Các lần giao phối thử nghiệm đã tạo ra những con mái nở ra với màu nâu (di truyền từ cha của chúng), trong khi những con trống có màu đen (từ mẹ của chúng), vì vậy có thể dễ dàng tách ra khi nở. Và, khi trưởng thành, tất cả lông của chúng đều có màu trắng.
Sau đó, ông còn cần phải tích hợp gen vào đàn và chọn lọc để tăng độ thịt trong dòng đó. Mục tiêu cuối cùng phần lớn đã đạt được vào năm 1986, sau 15 năm nỗ lực miệt mài (hình 5).
Sự Liên Quan Với Thuyết Tiến Hóa
Tất cả những việc này mất rất nhiều công sức trong nhiều năm. Hàng ngàn con gà tây đã được theo dõi và ghi chép về cân nặng, hình dạng, và màu sắc khi nở. Chỉ một tỷ lệ nhỏ được chọn làm cha mẹ cho thế hệ tiếp theo. Như Dubby đã nói:
Dự án đòi hỏi nhiều năm nỗ lực cách kế hoạch để phát triển các giống thuần chủng chỉ dành cho hai gen hiện có và để lai tạo loại bỏ các gen không mong muốn rồi sẽ xuất hiện trong quá trình. Đó là công việc khó khăn, mặc dù chúng tôi biết mình phải làm gì!
Vậy mà, ông nói, những người theo thuyết tiến hóa Darwin tin rằng chọn lọc tự nhiên cách ‘mù quáng’ và các đột biến ngẫu nhiên đã tạo ra mọi sự sống trên trái đất bắt đầu từ một tế bào duy nhất! Họ tuyên bố rằng ‘bằng cách nào đó’ các thông tin di truyền mới, mã hóa và điều chỉnh các chức năng mới, ‘tự xuất hiện’. Sau đó, chọn lọc tự nhiên đã tạo ra các sinh vật ngày càng phức tạp hơn, thông qua các quá trình không được hướng dẫn, trong hàng tỷ năm. Trên thực tế, Dubby nói,
Họ không biết sao tất cả những điều được cho là đã xảy ra này xảy ra như thế nào! Kinh nghiệm thực tế của chúng tôi chứng minh rõ ràng rằng ‘thuyết tiến hóa’ thực sự là một câu chuyện cổ tích, và không liên quan gì đến khoa học thực tế, thực nghiệm! Vậy, tại sao lại tin vào điều đó?
Tiếp Tục Rao Giảng Thuyết Sáng Thế
Tâm nguyện của Dubby là truyền bá Tin Lành, và thách thức Hội Thánh quay lại với thẩm quyền của Kinh Thánh. Ông nhận ra rằng thuyết tiến hóa với hàng triệu năm của nó là một trở ngại, làm mù mắt cả người không tin lẫn người tin Chúa. Ngoài việc công tác ở hội thánh địa phương, Dubby vẫn tiếp tục giữ kết nối chặt chẽ công tác mục vụ ở Châu Phi. Ông cũng tiếp tục phát triển kênh YouTube và trang web mục vụ của mình, “Đối mặt cái chết với niềm vui hy vọng”, tập trung vào các chủ đề theo đức tin tích cực. Dubby tuyên bố:
Tôi hoàn toàn tin tưởng, dựa trên tất cả các bằng chứng di truyền mà tôi đã thấy, rằng mọi sinh vật sống đều có nguồn gốc từ các loài trong Sáng Thế Ký, được tạo ra ban đầu cách hoàn hảo, cách đây khoảng thời gian tương đối ngắn. Đây chính xác là những gì Kinh Thánh dạy!
Người dịch: Richard Huynh
Theo Creation.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
References and Notes
- The Jungle Doctor, jungledoctorcomics.com, acc. 15 Mar 2022.
- See Maclachlan, R., Abiogenesis?, creation.com/abiogenesis, 20 Dec 2014. Also Batten, D., Origin of life, creation.com/origin-of-life, last updated 8 Nov 2021.
- Wilder-Smith, A.E., The Creation of Life; A cybernetic approach to evolution, Harold Shaw, Illinois, 1970.
- Since renamed Ethnos360, but keeping its original name in the UK.
- Technically black turkeys are called ‘bronze’, and the brown ones are called ‘copper’ (or ‘auburn’).