Home Chuyên Đề Khoa Học Đã Ngừng Ủng Hộ Những Người Vô Thần Và Bắt Đầu Hướng Về Chúa Như Thế Nào

Khoa Học Đã Ngừng Ủng Hộ Những Người Vô Thần Và Bắt Đầu Hướng Về Chúa Như Thế Nào

by Sưu Tầm
30 đọc

Các tiêu đề trên báo chí gần đây không mang tính khích lệ cho các tín hữu. Một cuộc thăm dò của Gallup cho thấy tỷ lệ người Mỹ tin Chúa đã giảm xuống còn 81%—giảm 10% trong thập kỷ qua và là mức thấp chưa từng có. Xu hướng này đặc biệt tăng rõ rệt ở những người trẻ tuổi. Theo một cuộc thăm dò của Trung-tâm Nghiên-cứu Pew, những người từ 18 đến 29 tuổi nằm trong số những người được gọi là “vô đạo”—những người theo thuyết vô thần, thuyết bất khả tri và những người không theo tôn giáo nào.

Các mục sư và các nhà lãnh đạo tôn giáo cho rằng xu hướng này là do nhiều yếu tố: những người trẻ tuổi lớn lên bên ngoài môi trường hội thánh, không quen với nghi lễ và văn hóa hội thánh, thậm chí COVID-19 cũng là một trong những nguyên nhân.

Chúng tôi đã tìm thấy một câu trả lời khác trong cuộc khảo sát thăm dò trong nước về những lý do cơ bản cho sự hoài nghi ngày càng tăng này: sự hiểu lầm về khoa học.

Thật đáng ngạc nhiên, cuộc khảo sát của chúng tôi đã phát hiện ra rằng thông điệp khoa học được nhận thức một cách không đúng đắn đóng vai trò hàng đầu trong việc đánh mất đức tin. Đặc biệt, chúng tôi nhận thấy rằng các lý thuyết khoa học về sự tiến hóa tự nhiên của sự sống đã khiến nhiều người từ chối niềm tin nơi Đức Chúa Trời hơn là nỗi lo về đau khổ, bệnh tật hoặc cái chết. Cuộc khảo sát cũng chỉ ra rằng 65% những người tự cho mình là vô thần và 43% những người theo thuyết bất khả tri tin rằng “những phát hiện của khoa học [nói chung] khiến cho sự tồn tại của Chúa ít có khả năng xảy ra hơn.”

Thật dễ dàng để thấy tại sao nhận thức này đã tăng lên nhanh chóng. Trong những năm gần đây, nhiều nhà khoa học đã nổi lên như những phát ngôn viên nổi tiếng cho chủ nghĩa vô thần. Richard Dawkins, Lawrence Krauss, Bill Nye, Michael Shermer, Stephen Hawking cùng nhiều người khác nữa đã xuất bản những cuốn sách nổi tiếng lập luận rằng khoa học làm cho niềm tin vào Chúa trở nên không cần thiết hoặc không hợp lý. Dawkins đã viết một câu nổi tiếng: “Vũ trụ mà chúng ta quan sát có chính xác những đặc tính mà chúng ta mong đợi nếu xét về bản chất, không có mục đích, không có thiết kế… chẳng có gì ngoài sự thờ ơ mù quáng đến mức nhẫn tâm.”

Tuy nhiên, giữa thông điệp và thực tế, có một sự mất kết nối lớn. Trong thế kỷ qua, những khám phá khoa học quan trọng đã thách thức mạnh mẽ chủ nghĩa vô thần dựa trên cơ sở khoa học, và đặc biệt là ba trong số những khám phá đó hiện đang kể một câu chuyện rõ ràng và chân thật hơn về sự hiện diện của một Đức Chúa Trời.

Đầu tiên, các nhà khoa học đã khám phá ra rằng vũ trụ vật chất có một sự khởi đầu. Phát hiện này, được hỗ trợ bởi quan sát thiên văn học và lý thuyết vật lý, mâu thuẫn với mong đợi của những người vô thần chỉ bám vào khoa học, những người từ lâu đã miêu tả vũ trụ là vĩnh cửu và tự tồn tại—và do đó, không cần đến một Đấng sáng tạo nào cả.

Thay vào đó, bằng chứng cho cái mà các nhà khoa học gọi là Vụ Nổ Lớn đã xác nhận cho kỳ vọng của những người theo thuyết hữu thần truyền thống. Người đoạt giải Nobel Arno Penzias, người giúp thực hiện một khám phá quan trọng ủng hộ thuyết Vụ Nổ Lớn, đã ghi nhận mối liên hệ rõ ràng giữa lời khẳng định về sự khởi đầu của vũ trụ và khái niệm về sự sáng tạo thiên thượng. Penzias viết: “Dữ liệu tốt nhất mà chúng tôi có chính xác như những gì tôi đã dự đoán, tôi không có gì để tiếp tục ngoài năm cuốn sách của Môi-se…[và] toàn bộ Kinh Thánh.

Thứ hai, những khám phá từ vật lý về cấu trúc của vũ trụ củng cố kết luận hữu thần này. Kể từ những năm 1960, các nhà vật lý đã xác định rằng các quy luật vật lý cơ bản và các thông số của vũ trụ được điều chỉnh một cách tinh vi, điều mà tưởng như bất khả thi, để làm cho vũ trụ của chúng ta có khả năng chứa đựng sự sống. Ngay cả những thay đổi nhỏ của nhiều yếu tố độc lập—chẳng hạn như cường độ của lực hấp dẫn hoặc lực hấp dẫn điện từ, hoặc sự sắp xếp ban đầu của vật chất và năng lượng trong vũ trụ—cũng có thể khiến cho sự sống không thể tồn tại. Các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng chúng ta đang sống trong một loại “Vũ-trụ Goldilocks” hay như nhà vật lý người Úc Luke Barnes gọi là một “Vũ-trụ May-mắn” cực kỳ.

Không có gì đáng ngạc nhiên, nhiều nhà vật lý đã kết luận rằng sự tinh chỉnh khó có thể xảy ra này chỉ ra một “bộ điều chỉnh” vũ trụ. Như nhà vật lý thiên văn Cambridge Sir Fred Hoyle đã lập luận, “Cách giải thích thông thường về dữ liệu cho thấy rằng một siêu trí tuệ đã nhúng tay vào các định luật vật lý” để biến sự sống thành hiện thực.

Thứ ba, sinh học phân tử đã tiết lộ sự hiện diện trong các tế bào sống của một thế giới tinh tế của công nghệ nano thông tin. Chúng bao gồm mã kỹ thuật số trong DNA và RNA—các cỗ máy phân tử nhỏ, được xây dựng phức tạp, vượt xa công nghệ kỹ thuật số cao của chúng ta về khả năng lưu trữ và truyền tải. Và ngay cả Richard Dawkins cũng thừa nhận rằng “mã gen giống mã của máy tính một cách kỳ lạ” — có vẻ như ngụ ý rằng chính công việc của một lập trình viên bậc thầy là nguồn gốc của sự sống. Ít nhất, những khám phá của sinh học hiện đại không xuất phát từ các quá trình duy vật mù quáng.

Tất cả điều này nhấn mạnh sự chênh lệch ngày càng tăng giữa nhận thức của công chúng về thông điệp của khoa học và những bằng chứng khoa học thực sự. Khác xa với việc chỉ ra “sự thờ ơ mù quáng, tàn nhẫn”, những khám phá vĩ đại của thế kỷ trước chỉ ra bản thiết kế tinh tế của sự sống và vũ trụ, và có thể nói là có một Đấng Sáng Tạo khôn ngoan đứng đằng sau tất cả những thiết kế này.

Dịch: Eunice Tu

Nguồn: newsweek.com

Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com

Bình Luận:

You may also like