Home Dưỡng Linh Ngày 13 – Các Lễ Vật Cho Bàn Thờ

Ngày 13 – Các Lễ Vật Cho Bàn Thờ

by SU Việt Nam
30 đọc

Mười hai bộ tộc dâng các của lễ cho bàn thờ. Mỗi ngày, mỗi bộ tộc dâng những của lễ kích cỡ như nhau. Tất cả các bộ tộc đều đã đồng lòng dự phần.

Dân Số Ký 7:12-89

12 Người dâng lễ vật vào ngày đầu tiên là Na-ha-sôn, con trai của A-mi-na-đáp, thuộc bộ tộc Giu-đa. 13 Lễ vật của ông gồm một cái đĩa bạc nặng một kí rưỡi, một cái chậu bạc nặng tám trăm gam, theo siếc-lơ nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu dùng làm tế lễ chay, 14 một cái chén vàng nặng một trăm mười lăm gam đựng đầy thuốc thơm, 15 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ thiêu; 16 một con dê đực dùng làm tế lễ chuộc tội 17 và hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ bình an. Đó là lễ vật của Na-ha-sôn, con trai A-mi-na-đáp.

18 Ngày thứ hai, Na-tha-na-ên, con trai của Xu-a, thủ lĩnh của Y-sa-ca, đến dâng lễ vật. 19 Ông dâng một cái đĩa bạc nặng một ký rưỡi, một cái chậu bạc nặng tám trăm gam theo siếc-lơ nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu dùng làm tế lễ chay; 20 một cái chén vàng nặng một trăm mười lăm gam đựng đầy thuốc thơm; 21 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ thiêu; 22 một con dê đực dùng làm tế lễ chuộc tội 23 và hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ bình an. Đó là lễ vật của Na-tha-na-ên, con trai Xu-a.

24 Ngày thứ ba, Ê-li-áp, con trai của Hê-lôn, thủ lĩnh của Sa-bu-lôn đến dâng lễ vật. 25 Lễ vật của ông gồm một cái dĩa bạc nặng một ký rưỡi, một cái chậu bạc nặng tám trăm gam theo siếc-lơ nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu dùng làm tế lễ chay; 26 một cái chén vàng nặng một trăm mười lăm gam đựng đầy thuốc thơm; 27 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ thiêu; 28 một con dê đực dùng làm tế lễ chuộc tội 29 và hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ bình an. Đó là lễ vật của Ê-li-áp, con trai Hê-lôn.

30 Ngày thứ tư, Ê-lít-su, con trai Sê-đêu, thủ lĩnh của Ru-bên, đến dâng lễ vật. 31 Lễ vật của ông gồm một cái đĩa bạc nặng một kí rưỡi, một cái chậu bạc nặng tám trăm gam theo siếc-lơ nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu dùng làm tế lễ chay; 32 một cái chén vàng nặng một trăm mười lăm gam đựng đầy thuốc thơm, 33 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ thiêu; 34 một con dê đực dùng làm tế lễ chuộc tội 35 và hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ bình an. Đó là lễ vật của Ê-lít-su, con trai Sê-đêu.

36 Ngày thứ năm, Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-ha-đa, thủ lĩnh của Si-mê-ôn, đến dâng lễ vật. 37 Lễ vật của ông gồm một cái đĩa bạc nặng một ký rưỡi, một cái chậu bạc nặng tám trăm gam theo siếc-lơ nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu dùng làm tế lễ chay; 38 một cái chén vàng nặng một trăm mười lăm gam, đựng đầy thuốc thơm; 39 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ thiêu; 40 một con dê đực dùng làm tế lễ chuộc tội 41 và hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ bình an. Đó là lễ vật của Sê-lu-mi-ên, con trai Xu-ri-ha-đai.

42 Ngày thứ sáu, Ê-li-a-sáp, con trai Đê-u-ên, thủ lĩnh của Gát, đến dâng lễ vật. 43 Lễ vật của ông gồm một cái đĩa bạc nặng một ký rưỡi, một cái chậu bạc nặng tám trăm gam theo siếc-lơ nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu dùng làm tế lễ chay; 44 một cái chén vàng nặng một trăm mười lăm gam đựng đầy thuốc thơm; 45 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ thiêu; 46 một con dê đực dùng làm tế lễ chuộc tội 47 và hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ bình an. Đó là lễ vật của Ê-li-a-sáp, con trai Đê-u-ên.

48 Ngày thứ bảy, Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút, thủ lĩnh của Ép-ra-im, đến dâng lễ vật. 49 Lễ vật của ông gồm một cái đĩa bạc nặng một kí rưỡi, một cái chậu bạc nặng tám trăm gam theo siếc-lơ nơi thánh; cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu dùng làm tế lễ chay; 50 một cái chén vàng nặng một trăm mười lăm gam đựng đầy thuốc thơm; 51 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ thiêu; 52 một con dê đực dùng làm tế lễ chuộc tội 53 và hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ bình an. Đó là lễ vật của Ê-li-sa-ma, con trai A-mi-hút.

54 Ngày thứ tám, Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đát-su, thủ lĩnh của Ma-na-se, đến dâng lễ vật. 55 Lễ vật của ông gồm một cái đĩa bạc nặng một ký rưỡi, một cái chậu bạc nặng tám trăm gam, theo siếc-lơ nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu dùng làm tế lễ chay; 56 một cái chén vàng nặng một trăm mười lăm gam đựng đầy thuốc thơm; 57 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ thiêu; 58 một con dê đực dùng làm tế lễ chuộc tội 59 và hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ bình an. Đó là lễ vật của Ga-ma-li-ên, con trai Phê-đát-su.

60 Ngày thứ chín, A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni, thủ lĩnh của Bên-gia-min, đến dâng lễ vật. 61 Lễ vật của ông gồm một cái đĩa bạc nặng một ký rưỡi, một cái chậu bạc nặng tám trăm gam, theo siếc-lơ nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu dùng làm tế lễ chay; 62 một cái chén vàng nặng một trăm mười lăm gam đựng đầy thuốc thơm; 63 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ thiêu; 64 một con dê đực dùng làm tế lễ chuộc tội 65 và hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ bình an. Đó là lễ vật của A-bi-đan, con trai Ghi-đeo-ni.

66 Ngày thứ mười, A-hi-ê-xe, con trai A-mi-sa-đai, thủ lĩnh của Đan, đến dâng lễ vật. 67 Lễ vật của ông gồm một cái đĩa bạc nặng một ký rưỡi, một cái chậu bạc nặng tám trăm gam, theo siếc-lơ nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu dùng làm tế lễ chay; 68 một cái chén vàng nặng một trăm mười lăm gam đựng đầy thuốc thơm; 69 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ thiêu; 70 một con dê đực dùng làm tế lễ chuộc tội 71 và hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ bình an. Đó là lễ vật của A-hi-ê-xe, con trai A-mi-sa-đai.

72 Ngày thứ mười một, Pha-ghi-ên, con trai của Óc-ran, thủ lĩnh của A-se, đến dâng lễ vật. 73 Lễ vật của ông gồm một cái đĩa bạc nặng một ký rưỡi, một cái chậu bạc nặng tám trăm gam, theo siếc-lơ nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu dùng làm tế lễ chay; 74 một cái chén vàng nặng một trăm mười lăm gam đựng đầy thuốc thơm; 75 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ thiêu; 76 một con dê đực dùng làm tế lễ chuộc tội 77 và hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ bình an. Đó là lễ vật của Pha-ghi-ên, con trai Óc-ran.

78 Ngày thứ mười hai, A-hi-ra, con trai Ê-nan, thủ lĩnh của Nép-ta-li, đến dâng lễ vật. 79 Lễ vật của ông gồm một cái đĩa bạc nặng một ký rưỡi, một cái chậu bạc nặng tám trăm gam, theo siếc-lơ nơi thánh, cả hai cái đều đầy bột lọc nhồi dầu dùng làm tế lễ chay; 80 một cái chén vàng nặng một trăm mười lăm gam đựng đầy thuốc thơm; 81 một con bò đực tơ, một con chiên đực, một con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ thiêu; 82 một con dê đực dùng làm tế lễ chuộc tội 83 và hai con bò đực, năm con chiên đực, năm con dê đực và năm con chiên con một tuổi dùng làm tế lễ bình an. Đó là lễ vật của A-hi-ra, con trai Ê-nan.

84 Đây là những lễ vật của các thủ lĩnh dân Y-sơ-ra-ên dâng cho việc cung hiến bàn thờ khi bàn thờ được xức dầu: Mười hai đĩa bạc, mười hai chậu bạc, mười hai chén vàng. 85 Mỗi cái đĩa bạc nặng một ký rưỡi và mỗi cái chậu bạc nặng tám trăm gam. Tổng số bạc của các đĩa và chậu khoảng hai mươi tám ký, theo siếc-lơ nơi thánh. 86 Mười hai cái chén vàng đựng đầy thuốc thơm, mỗi cái một trăm mười lăm gam, theo siếc-lơ nơi thánh. Tổng số vàng của chén nặng khoảng một ký bốn trăm gam. 87 Tổng số bò đực dùng làm tế lễ thiêu là mười hai con với mười hai con chiên đực, mười hai con chiên con một tuổi cùng với tế lễ chay và mười hai con dê đực dùng làm tế lễ chuộc tội. 88 Tổng số bò đực dùng làm tế lễ bình an là hai mươi bốn con với sáu mươi con chiên đực, sáu mươi con dê đực, và sáu mươi con chiên con một tuổi. Đó là lễ vật dâng về việc cung hiến bàn thờ sau khi bàn thờ được xức dầu.

89 Khi Môi-se vào Lều Hội Kiến để hầu chuyện với Đức Giê-hô-va, ông nghe tiếng Chúa phán với mình từ nắp thi ân trên Hòm Chứng Ước, ở giữa hai chê-ru-bim. Và như thế ông hầu chuyện với Đức Giê-hô-va.

Suy ngẫm và hiểu

Đức Chúa Trời muốn nhận được sự thờ phượng từ dân sự Ngài, điều được dâng lên Ngài đồng một lòng. Mặc dù mỗi ngày, một bộ tộc khác dâng của lễ, nhưng thành phần và kích thước của các của lễ đều giống nhau. Bất kể quy mô của từng bộ tộc, mỗi bộ tộc đều dâng của lễ cùng một loại và số lượng như nhau. Những lễ vật này được dùng cho các tế lễ của Lều Hội Kiến được dâng hàng ngày cho Đức Chúa Trời mỗi buổi sáng và buổi tối (c.12-88). Lều Hội Kiến là một nơi để thờ phượng Đức Chúa Trời, và đó cũng là nơi Đức Chúa Trời phán trực tiếp với Môi-se và là nơi Lời Chúa hiện diện (câu 89).

Đức Chúa Trời là Đấng như thế nào?

C.89 Đức Chúa Trời phán với Môi-se từ giữa hai chê-ru-bim từ nắp thi ân trên Hòm Chứng Ước. Sự hiện diện của Lời Chúa cho thấy dân Y-sơ-ra-ên đã gần như chuẩn bị xong cho cuộc hành quân. Dân sự của Đức Chúa Trời có thể ra đi khi Chúa hiện diện giữa họ qua Lời Ngài và khi họ nghe lời đó. Có phải chúng ta đang làm công việc của Đức Chúa Trời và đang lắng nghe tiếng của Đức Chúa Trời trong những lúc như thế hay không?

Ngài ban cho tôi bài học gì?

C.84-88 Vì các của lễ được dâng lên cho Đức Chúa Trời đã được thu lại ở một nơi, nên số lượng của các của lễ là rất lớn. Điều này là vì không chỉ mỗi bộ tộc đều dâng tất cả những gì họ có thể dâng, mà tất cả các bộ tộc đã hiệp lại cùng nhau như một và còn dâng cả phần hỗ trợ thêm. Với những của lễ này, họ đã giúp những người Lê-vi và các thầy tế lễ trong công việc phục vụ của họ trong Lều Hội Kiến. Chúng ta đang bày tỏ ân điển mà chúng ta nhận được từ Đức Chúa Trời qua của cải và những khả năng của mình như thế nào?

Tham khảo   

7:89 Câu này nhấn mạnh đến trách nhiệm đáng sợ của Môi-se, người thường xuyên đến Lều Hội Kiến để thưa chuyện với Đức Chúa Trời, và sau đó nghe tiếng của Đức Chúa Trời phán với ông, để nhận lãnh và truyền đạt những chỉ dẫn của Đức Chúa Trời cho dân sự. Câu này cũng tăng tính quan trọng của Đền Tạm, vì đó là nơi Môi-se nghe Đức Chúa Trời phán với ông từ giữa hai chê-ru-bim.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy giúp chúng con đồng lòng dự phần trong công việc của cộng đồng của mình, và xin hãy ban cho chúng con tấm lòng sẵn sàng giúp đỡ.

Đọc Kinh Thánh trong năm: Ru-tơ 1-4

Bình Luận:

You may also like