GÓC NHÌN Y KHOA CƠ ĐỐC
Vai trò của tâm linh trong sự chữa lành và hồi phục là gì? Đức tin nơi Đức Chúa Trời và sự cầu nguyện có ảnh hưởng gì đến tiến trình hồi phục của bệnh nhân không? Mục đích của bài viết này là tìm kiếm lời giải cho những câu hỏi ấy thông qua các tài liệu khoa học hiện có.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố nhằm tìm hiểu hiện tượng chữa lành hoặc hồi phục lạ thường xảy ra trong hoặc sau khi Cơ Đốc nhân cầu nguyện. Một nghiên cứu định tính về sự chữa lành lạ thường đã được thực hiện tại Na Uy, tập trung vào sự cầu nguyện và tác động của cầu nguyện đối với sự phục hồi thể chất. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng lý thuyết về mối liên hệ thân – tâm, một lý thuyết cho rằng thân thể con người mang cả bốn chiều kích: sinh học, tâm lý, xã hội và tâm linh – không chỉ có liên hệ với nhau mà còn đan xen, không thể tách rời nhau được. Do đó, bệnh tật cũng mang đủ bốn chiều kích ấy và cũng không thể bị tách biệt khỏi bất kỳ yếu tố nào. Cuộc khảo sát được thực hiện thông qua phỏng vấn với 25 người trong khoảng thời gian từ tháng 9 năm 2016 đến tháng 3 năm 2020. Mỗi người tham gia được yêu cầu mô tả kinh nghiệm chữa lành của họ, điều đó có ý nghĩa gì đối với họ, họ lý giải trải nghiệm ấy ra sao, và đâu là thực hành đức tin Cơ Đốc mà họ liên hệ đến sự chữa lành mình nhận được.
Trong số này, 16/25 người cho biết quá khứ đau khổ có liên hệ đến các mối quan hệ cá nhân – đặc biệt là việc bị cha mẹ bỏ bê hoặc lạm dụng, ảnh hưởng tâm lý sau ly hôn, nỗi sợ không được lên Thiên Đàng, và xung đột căng thẳng trong các mối quan hệ vì là người nhập cư mới. Bên cạnh đó, 9/25 người có chẩn đoán y khoa rõ ràng về tình trạng thể chất, bao gồm: 3 người bị ung thư, 1 người bị loét dạ dày, 1 người thoát vị cột sống, 1 người mắc bệnh di truyền, và 1 người bị đau cơ-xương sau vận động.
Mười sáu người từng chịu tổn thương từ các mối quan hệ và chín người gặp vấn đề sức khỏe thể chất đều trải qua một hình thức chữa lành nào đó. Những trải nghiệm chữa lành này diễn ra trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Một số người kể lại rằng họ được người khác cầu nguyện cho, có thể là một người có ơn chữa lành, mục sư, hoặc người bạn, thậm chí có người đã đọc Kinh Thánh cho họ nghe. Hành động đặt tay cầu nguyện là một thực hành phổ biến trong đức tin Cơ Đốc và đã được thực hiện với một số trường hợp. Cũng có những trường hợp là đặt tay cầu nguyện từ xa, tức là người cầu thay không tiếp xúc trực tiếp mà cầu nguyện từ một khoảng cách nhất định. Một số người tham gia nghiên cứu mô tả việc họ được “đụng chạm về mặt cảm xúc” khi nghe những lời công bố “Danh của Chúa Giê-xu” từ miệng của một mục sư trong khoảnh khắc chữa lành đó.
Một điều thú vị là từ nghiên cứu này, bốn chủ đề chính đã nổi bật lên khi người tham gia mô tả trải nghiệm được chữa lành của mình.
- Nhóm đầu tiên cảm thấy ấm áp hoặc có luồng năng lượng chạy trong người
- Nhóm thứ hai cảm thấy choáng ngợp vì tình yêu thương
- Nhóm thứ ba trải qua sự giải tỏa về cảm xúc (chẳng hạn như bật khóc)
- Nhóm thứ tư cảm thấy có một “sự đụng chạm chữa lành” chạm đúng vào nơi đau đớn trong thân thể của họ
Một người tham gia kể rằng khi có ai đó đến gần, đặt tay ôm nhẹ lấy mình và cầu nguyện, cô cảm thấy một luồng “nhiệt lượng mạnh mẽ” tràn ngập toàn thân. Một người khác được trích lời kể lại: “Bất ngờ, cả căn hộ như bừng sáng… có một sự hiện diện của tình yêu sâu sắc tràn vào. Như thể một cơn mưa rào; rồi cơn mưa ấy đổ xuống trên tôi, bắt đầu chảy xuyên qua tôi. Và tôi chỉ biết khóc nức nở. Nó như từng đợt sóng yêu thương – như một thác nước. Và tình yêu ấy cuốn trôi hết mọi sự trống rỗng, mọi tiếng nói ‘Tại sao mày tồn tại? Mày không được yêu thương.’ Như thể cả vũ trụ của tôi bỗng được biến đổi hoàn toàn. Mọi thứ như rơi vào đúng vị trí của nó.” Người tham gia này tin chắc rằng tình yêu đó đến trực tiếp từ Đức Chúa Trời. Những người khác cũng mô tả trải nghiệm tương tự, như thể họ được “bao phủ” hay “ôm lấy” bởi tình yêu của Đức Chúa Trời, hoặc cảm nhận được rằng mình được Chúa đoái đến.
Đối với chủ đề thứ ba (sự giải tỏa cảm xúc), một người chia sẻ rằng trong lúc đang ngợi khen Chúa bằng âm nhạc, cô cảm thấy như “những bức tường” mà cô từng dựng lên trong cuộc đời mình bị xuyên thủng, và cô bắt đầu bật khóc. Ở chủ đề thứ tư, liên quan đến “sự đụng chạm chữa lành thuộc thể”, một người bị thoát vị cột sống kể lại rằng người hướng dẫn cầu nguyện trong buổi nhóm có lời tri thức cụ thể từ Chúa rằng có ai đó trong khán phòng đang bị đau lưng. Trong lúc cầu nguyện chữa lành, người tham gia nghiên cứu này bất ngờ cảm nhận rõ cơn đau được chữa lành hoàn toàn.
Một số người đã kinh nghiệm sự chữa lành hoàn toàn. Chẳng hạn, một người từng được chẩn đoán mắc bệnh di truyền cho biết mình bắt đầu phát triển cơ bắp và khỏe lên – điều mà theo chẩn đoán trước đó là không thể xảy ra. Anh cũng bắt đầu ăn uống bình thường mà không còn bị bệnh nặng như trước. Một người bị loét dạ dày đã hoàn toàn bình phục sau khi mục sư cầu nguyện cho cô. Một người khác từng bị ám ảnh và lo sợ tôn giáo cũng đã bất ngờ được giải cứu, không còn bị sợ hãi nữa. Ngoài ra, nhiều người mô tả rằng trải nghiệm chữa lành đó đánh dấu một sự khởi đầu mới trong đời sống của họ. Họ cảm nhận được sự chữa lành trong một lĩnh vực nhất định, dù ở những lĩnh vực khác, nỗi đau vẫn còn hiện diện.
Nghiên cứu định tính này tập trung vào việc mô tả đặc điểm của sự chữa lành liên quan đến đức tin Cơ Đốc, cụ thể là sự cầu nguyện. Trải nghiệm của mỗi người tham gia đều rơi vào một trong bốn nhóm chủ đề: cảm thấy ấm áp, bị choáng ngợp bởi tình yêu thương, được giải tỏa cảm xúc tiêu cực, hoặc “sự đụng chạm chữa lành thuộc thể”. Nghiên cứu cũng cho thấy có nhiều dạng chữa lành xảy ra trên cả phương diện thể chất lẫn tâm lý. Điều đáng chú ý là các trải nghiệm chữa lành này đều xảy ra trong lúc hoặc sau khi Cơ Đốc nhân cầu nguyện.
Ngày càng có nhiều tài liệu nghiên cứu cho thấy đời sống tâm linh có liên hệ đến khả năng hồi phục tốt hơn sau phẫu thuật tim. Một nghiên cứu đáng chú ý được thực hiện bởi Oxman và cộng sự vào năm 1995 đã khảo sát mối liên hệ giữa tâm linh, tôn giáo và tỉ lệ tử vong sau phẫu thuật tim. Trong nghiên cứu này, có 232 bệnh nhân tham gia, tất cả đều đã trải qua phẫu thuật tim tại Trung tâm Y khoa Dartmouth (bao gồm phẫu thuật bắc cầu động mạch vành, thay van động mạch chủ, hoặc cả hai). Các cuộc phỏng vấn được thực hiện tại ba thời điểm khác nhau. Cuộc phỏng vấn đầu tiên được thực hiện trước khi mổ, nhằm đánh giá tình trạng tim mạch, mức độ tôn giáo và mạng lưới xã hội của bệnh nhân. Hai cuộc phỏng vấn tiếp theo được thực hiện sau phẫu thuật, lần lượt vào tháng thứ nhất và tháng thứ sáu sau mổ. Về mặt tôn giáo, nhóm tham gia nghiên cứu bao gồm: 58 người Công giáo, 147 người Tin Lành, 2 người Do Thái giáo, 2 người theo các tôn giáo khác, và 23 người không có tôn giáo.
Điểm đặc biệt của nghiên cứu này là nó xem xét tỉ lệ tử vong trong vòng sáu tháng sau phẫu thuật tim và mối liên hệ với đời sống tâm linh và tôn giáo của bệnh nhân. Trong số những người tham gia, có 21 người qua đời, chiếm khoảng 9% tổng số bệnh nhân. Ngoại trừ một trường hợp, tất cả các ca tử vong đều liên quan đến biến chứng từ phẫu thuật tim. Có sáu yếu tố được xác định là làm tăng đáng kể nguy cơ tử vong, bao gồm:
- Trên 70 tuổi
- Mất khả năng thực hiện các sinh hoạt cơ bản hằng ngày
- Từng trải qua phẫu thuật tim trước đó
- Không tham gia vào nhóm xã hội hay cộng đồng nào
- Không có nguồn an ủi hoặc sức mạnh đến từ đức tin
- Không có đời sống tôn giáo sâu sắc
Kết quả nghiên cứu cho thấy: đối với những bệnh nhân lớn tuổi sau phẫu thuật tim, nguy cơ tử vong tăng gấp hơn ba lần nếu họ không tham gia vào bất kỳ nhóm xã hội hay cộng đồng nào và không tìm thấy sự nâng đỡ hoặc an ủi từ đức tin tôn giáo. Một số ví dụ về hoạt động cộng đồng được nêu trong nghiên cứu bao gồm: ăn tối cùng Hội Thánh, sinh hoạt tại trung tâm người cao tuổi, tham gia hội đồng địa phương hoặc hội bảo tồn lịch sử địa phương.
Bệnh nhân nhận được nhiều sự an ủi và sức mạnh từ đức tin của mình, đồng thời tham gia vào các nhóm sinh hoạt có tổ chức, đã cho thấy lợi ích rõ rệt trong việc giảm tỷ lệ tử vong. Nghiên cứu cũng cho thấy những người có đức tin sâu sắc có tỷ lệ tử vong thấp hơn so với những người không theo đạo, hoặc chỉ theo cho có. Bên cạnh đó, việc tham dự các buổi thờ phượng cũng được khảo sát, và người tham gia được phân thành hai nhóm: nhóm hiếm khi hoặc không bao giờ tham dự, và nhóm tham dự ít nhất vài lần trong một tháng. Có một xu hướng giảm tỷ lệ tử vong rõ rệt ở những người thường xuyên tham dự các buổi thờ phượng. Đây là nghiên cứu đầu tiên báo cáo về tác động của đức tin và việc tham gia nhóm xã hội đối với bệnh nhân tim sau phẫu thuật.
Nghiên cứu của Oxman cùng cộng sự mang đến bằng chứng khoa học vững chắc cho thấy sức mạnh và sự an ủi từ đức tin, cũng như đức tin sâu sắc, đều có lợi ích giảm tỷ lệ tử vong theo như thống kê. Một bác sĩ muốn chăm sóc toàn diện cho con người (tức là cả thân xác, tâm trí và linh hồn) sẽ hành động vì lợi ích tốt nhất của bệnh nhân khi kết hợp khía cạnh thuộc linh vào việc chăm sóc sức khỏe, dựa trên kết quả của nghiên cứu này. Nghiên cứu đã chứng minh mối liên hệ rõ ràng giữa tâm linh con người với tỷ lệ tử vong. Dựa trên cả nghiên cứu định tính trước đây và nghiên cứu định lượng này, chúng ta có thể trả lời một cách thấu đáo hơn các câu hỏi: Tâm linh đóng vai trò gì trong việc chữa lành và hồi phục? Đức tin nơi Chúa và lời cầu nguyện có ảnh hưởng như thế nào đến quá trình phục hồi của bệnh nhân?
Cuối cùng, một nghiên cứu đáng chú ý của Lucchetti cùng cộng sự đã khảo sát tác động của đức tin và tâm linh lên tỷ lệ tử vong so với các phương pháp can thiệp sức khỏe khác. Các nhà nghiên cứu đã sử dụng 25 tổng quan có hệ thống về các can thiệp sức khỏe đã được biết đến và 3 tổng quan có hệ thống về tâm linh và đức tin. Mỗi nghiên cứu đều báo cáo giảm tỷ lệ tử vong theo phần trăm. Tâm linh và đức tin như một phương pháp can thiệp được so sánh với những chiến lược phòng ngừa bệnh phổ biến. Kết quả nghiên cứu gây chú ý cho thấy tâm linh và đức tin mang lại mức giảm tử vong cao hơn so với 9 phương pháp can thiệp khác, những phương pháp này cũng giảm tỷ lệ tử vong theo thống kê. Tâm linh và đức tin giúp giảm nguy cơ tử vong nhiều hơn so với việc sử dụng aspirin liều thấp để phòng ngừa các triệu chứng tim mạch và tai biến mạch máu não, tầm soát ung thư đại trực tràng, liệu pháp statin, tầm soát ung thư tuyến tiền liệt, và việc sử dụng túi khí an toàn.
Tổng quan đầu tiên trong ba nghiên cứu có hệ thống về tâm linh và đức tin, do Powell và cộng sự thực hiện, cho thấy việc nhóm lại tại hội thánh giúp giảm tỷ lệ tử vong đến 25%. Trong nghiên cứu thứ hai, McCullough và cộng sự thực hiện một phân tích tổng hợp về mối liên hệ giữa việc nhóm lại tại hội thánh và tỷ lệ tử vong, cho thấy những người tham dự các buổi nhóm mỗi tuần một lần hoặc nhiều hơn có tỷ lệ tử vong thấp hơn so với những người tham dự ít hơn. Ở nghiên cứu thứ ba, Chida và cộng sự phát hiện rằng đức tin và đời sống tâm linh đem lại lợi ích giảm tử vong ở mức 18%. Đáng chú ý, nghiên cứu này chỉ ra rằng lợi ích giảm tỷ lệ tử vong từ đức tin và tâm linh là độc lập với các yếu tố khác như sự hỗ trợ xã hội, hút thuốc, uống rượu, tập thể dục hay tình trạng kinh tế – xã hội. Vì vậy, với lợi ích giảm tử vong từ việc nhóm lại tại hội thánh nhiều hơn một lần mỗi tuần, cũng như từ đời sống tâm linh và đức tin, y học dựa trên bằng chứng đã cho thấy: phần tâm linh của con người đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình chữa lành và phục hồi. Đức tin nơi Đức Chúa Trời chính là trung tâm của sự chữa lành này.
Là một phần trong quá trình xem xét các tài liệu khoa học liên quan đến sự cầu nguyện, đức tin, sự chữa lành và tỷ lệ tử vong, các bằng chứng cho thấy rằng Đức Chúa Trời trong Kinh Thánh chữa lành theo một cách thật diệu kỳ. Sự chữa lành diễn ra cả trên phương diện thể chất lẫn tinh thần. Ngoài ra, những người nhận được sức mạnh và sự an ủi từ đức tin của mình, và xem mình là người có đức tin mạnh mẽ, có nguy cơ tử vong thấp hơn trong vòng 6 tháng sau phẫu thuật bắc cầu động mạch vành, thay van động mạch chủ, hoặc cả hai. Cuối cùng, những người tham dự nhóm thờ phượng đều đặn, và có đời sống thuộc linh lẫn đức tin sống động, có tỷ lệ tử vong thấp hơn rõ rệt so với những người tham dự ít hơn và không sống đạo hoặc không có đời sống thuộc linh lành mạnh. Các bằng chứng nhất quán cho thấy phần linh của con người ảnh hưởng sâu sắc đến sức khỏe và sự hồi phục toàn diện của bệnh nhân. Vì vậy, với tư cách là những bác sĩ y học chỉnh thể – những người chăm sóc con người cách toàn diện (tức là tâm trí, thân thể và tâm linh) – chúng ta có trách nhiệm, dựa trên y học thực chứng, quan tâm đến khía cạnh thuộc linh trong quá trình điều trị, chứ không chỉ dừng lại ở thể chất và tâm lý.
Định nghĩa về đức tin có thể được tìm thấy trong Kinh Thánh, nơi chép rằng: “Đức tin là sự biết chắc vững vàng của những điều mình đương trông mong, là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy” (Hê-bơ-rơ 11:1). Việc có đức tin là điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn nữa là biết mình đang đặt niềm tin và sự trông cậy nơi ai. Các nghiên cứu mà chúng tôi đã khảo sát cho thấy phần lớn người tham gia đều tin vào Đức Chúa Trời của Kinh Thánh và cầu nguyện với Ngài.
Vì vậy, thật thích hợp để kết lại bài viết này bằng lời của chính Chúa Giê-xu – Đấng đã phán với vô số người được Ngài chữa lành rằng: “Đức tin của con đã chữa lành con.” (Lu-ca 8:48, 17:19, 18:42; Mác 5:34, 10:52; Ma-thi-ơ 9:22)
Dịch & biên tập: Eunice Tu
Nguồn: cbn.com
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com