Home 100 Năm Tin Lành VN Alexandre Yersin – Những Người Tin Lành Đầu Tiên Đến VN – P3

Alexandre Yersin – Những Người Tin Lành Đầu Tiên Đến VN – P3

by Ban Biên Tập
30 đọc

Alexandre Yersin (1863-1943)

 

Alexandre Yersin tại Amsterdam – Hòa Lan

 

6.  Cống Hiến Cho Việt Nam

Sống với dân Việt Nam, Yersin biết trâu bò là nguồn năng lực cho nhà nông.  Sẵn có đất, Yersin mở rộng nghiên cứu việc chữa bệnh cho gia súc.  Trung tâm thí nghiệm của Yersin trở thành viện thú y đầu tiên ở Đông Dương.

Biết được uy tín của  Yersin, năm 1902 Toàn Quyền Paul Doumer yêu cầu Yersin ra Hà Nội giúp thành lập Đại Học Y Khoa Hà Nội.  Hai năm sau, Đại Học Y Khoa Hà Nội khánh thành (1904).   Đây là trường đại học y khoa đầu tiên của Đông Dương. Alexandre Yersin là Viện Trưởng đầu tiên của trường này.

Bên cạnh việc sáng lập, Yersin có trách nhiệm chiêu sinh cho trường Đại Học Y Khoa Hà Nội. Vào thời gian đó, chính quyền Đông Dương muốn lấy lòng dân Việt Nam nên tổ chức nhiều chương trình giáo dục, văn hóa, thể thao cho giới trẻ nhưng đa số thanh niên Việt Nam vì tinh thần chống Pháp nên bất hợp tác.  Làm thế nào để kêu gọi sự hợp tác của thanh niên Việt Nam, đó là điều mà chính quyền Đông Dương lúc đó rất quan tâm. Đối với Yersin, việc chiêu sinh Việt Nam không khó, bởi vì ông có lòng thương người và ông được thanh niên Việt Nam quý mến.  Nhiều thanh niên trên toàn cõi Đông Dương, phần lớn là người Việt, đã xin học tại Đại Học Y Khoa Hà Nội.

Yersin không phải là người thích quyền hành và ông cũng không thích chính sách cai trị của người Pháp tại Đông Dương.  Tuy nhiên, một số chương trình chính quyền Đông Dương yêu cầu Yersin tham gia, ông đã sẵn lòng hợp tác vì Yersin tin rằng những điều ông làm có ích cho nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam.  Trong hai năm đầu, dầu giữ chức vụ Viện Trưởng Đại Học Y Khoa Hà Nội, Yersin dành nhiều thì giờ tại Nha Trang hơn tại Hà Nội. Đến năm 1904, ông xin từ chức để dành trọn thì giờ nghiên cứu tại Nha Trang.

Năm 1905, phòng thí nghiệm của Yersin ở Nha Trang được nâng cấp trở thành Viện Pasteur Đông Dương.  Đây là Viện Pasteur thứ hai trên thế giới.  Bên cạnh các phòng thí nghiệm tại Nha Trang và Sài Gòn, trong những năm về sau, Yersin mở thêm các trung tâm nghiên cứu tại Hà Nội (1920) và Đà Lạt (1936).

Trở lại việc thám hiểm khảo sát Đông Dương, trước  Yersin, người Pháp đã thực hiện vài cuộc thám hiểm Đông Dương do Doudart de Lagree và Francois Garnier (1860) và Auguste Pavie (1879), tuy nhiên những cuộc khảo cứu này không chính xác và không phân tích rõ ràng như của Yersin.  Trong bản tường trình về cuộc khảo cứu của mình, Yersin viết như sau: “Ở miền Nam, đất đai trù phú phù hợp cho việc làm nông.  Miền Trung thích hợp cho việc chăn nuôi.  Miền Bắc giàu khoáng sản.  Đây là tài nguyên của dân địa phương. Chúng ta có thể trồng thêm các cây nhiệt đới như trà, cà-phê, các loại rau, trại chăn nuôi và dầu thực vật.” 

Trong khi cuộc thám hiểm của Doudart de Lagree và Francois Garnier (1860) dẫn đến chiến tranh tại miền Bắc, Yersin muốn mục tiêu cuộc thám hiểm của mình mang lại hòa bình và thịnh vượng.  Yersin khuyên chính quyền Pháp không nên tham lam chỉ giành lợi cho mình nhưng phải chú trọng đến  quyền lợi của người bản xứ.  Về sau, chính quyền Pháp tại Đông Dương đã làm theo rất nhiều đề nghị của Yersin.

Không chờ chính phủ Pháp thực hiện lời đề nghị của ông,  khi có đất, Yersin bắt đầu thực hiện việc nghiên cứu những cây trồng mang lại ích lợi lâu dài cho Việt Nam. Hai mươi lăm năm còn lại của cuộc đời, Yersin đã chú tâm vào việc nghiên cứu thực vật.   Yersin cho nhập các giống trà, cà phê, ca cao, cao su, cọ, dừa, các loại cây ăn trái, dâu, mận, cà-rốt, bắp cải, sú-lơ.  Ông cho trồng thí nghiệm những loại cây và rau này trên những loại đất và địa hình khác nhau.  Sau khi nghiên cứu, Yersin hướng dẫn cách trồng và giới thiệu cho nhà nông. Năm 1915, Yersin cho trồng cây ký ninh tại Hòn Bà để chiết dược thảo làm thuốc trừ sốt rét.

Năm 1916, Alexandre Yersin được mời vào Viện Hàn Lâm Khoa Học Pháp.  Năm 1927, Yersin được trao tặng giải Lecomte của Viện Hàn Lâm Khoa Học Pháp.  Sau khi Pasteur, Roux, Calmette lần lược qua đời, năm 1934, Alexandre Yersin được mời làm giám đốc danh dự Viện Pasteur Paris.  Chức vụ này buộc ông mỗi năm phải về Pháp một lần để họp.  Năm 1940, Yersin về thăm Pháp lần cuối cùng trước khi Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ.

Năm 1943, sau hơn 50 năm sống tại Việt Nam,  Alexandre Yersin qua đời tại Nha Trang.  Học giả Thái Văn Kiểm viết: “Và sáng sớm ngày 1/3/1943, từ Viện Pasteur Nha Trang, ông nhìn lần cuối cùng về biển Nam Hải, rồi ông nhắm mắt từ giả cõi đời trở về nước Chúa.”

Lúc Yersin qua đời, người Nhật đã chiếm Đông Dương, tại Pháp nước Pháp cũng mất vào tay người Đức, do đó chính quyền Pháp không thể làm gì để vinh danh ông.  Theo ước nguyện của Alexandre Yersin, ông được an táng tại Suối Dầu. Do Yersin không có thân nhân tại Việt Nam, một số người Việt vì lòng yêu mến Yersin đã chăm sóc phần mộ của ông.  Vì không biết Yersin là người Tin Lành, nhiều người đã thắp hương, cúng giỗ, trái với niềm tin của ông. 

 7. Công Tác Truyền Giáo

Khi đến Đông Dương, Yersin đã không nói cho chính quyền Pháp động cơ của ông là làm giáo sĩ trong lĩnh vực y khoa.   Tuy nhiên, Yersin đã không giấu điều đó với mẹ ông.   Trong một bức thư gởi cho mẹ mình, Yersin đã viết:

Tu me demandes si je prends goût à la pratique médicale. Oui et non. J’ai beaucoup de plaisir à soigner ceux qui viennent me demander conseil, mais je ne voudrais pas faire de la médecine un métier, c’est-à-dire que je pourrais jamais demander à un malade de me payer pour des soins que j’aurais pu lui donner. Je considère la médecine comme un sacerdoce, ainsi que le pastorat. Demander de l’argent pour soigner un malade, c’est un peu lui dire la bourse ou la vie.

Lược dịch:

Mẹ hỏi con có thích hành nghề y khoa hay không.  Có và không.  Con có nhiều niềm vui khi điều trị những người đã đến gặp con để được hướng dẫn, nhưng con không bao giờ coi y khoa là một nghề, phải nói rằng không bao giờ con có thể đòi tiền người bệnh cho việc chăm sóc họ.  Con coi y khoa như là một chuyên môn và là một mục vụ. Đòi tiền để chăm sóc bệnh nhân chẳng khác nào nói với người đó rằng: tiền hay mạng sống.

Yersin viết:  “Con coi y khoa như là một mục vụ.”  Yersin dùng chữ mục vụ –  le pastorat  là chữ dùng để diễn tả công việc của người chăn bầy; là từ ngữ mà những người Tin Lành thường dùng để mô tả chức vụ của một mục sư hay những người hầu việc Chúa.  Alexandre Yersin đã đến Việt Nam như là một nhà truyền giáo trong lĩnh vực y khoa và ông đã thực hiện điều đó.

Yersin là người trầm lặng.  Không giống như những nhà truyền giáo bình thường, Alexandre Yersin đã không giảng về Chúa nhưng đã trình bày tình yêu của Chúa theo cách riêng của ông. Giống như Chúa Giê-xu, Yersin đã sống để bày tỏ tình yêu.   Những người Việt sống gần Yersin biết ông và quý mến ông.  Họ thấy Yersin có một điều gì là lạ, khác với nhiều người Pháp vào lúc đó, nhưng không biết đó là điều gì. Những người đã tiếp xúc với Yersin đều biết ông là một người đạo đức và đầy lòng nhân ái.

Trong Thánh Kinh, Chúa Giê-xu dạy rằng người chăn bầy chân thật phải hy sinh cho bầy chiên của mình.  Yersin đã chọn những người nghèo tại Việt Nam là bầy chiên của ông và Yersin đã hy sinh phần lớn cuộc đời của ông cho họ.  Noel Bernard, cựu Giám đốc Viện Pasteur tại Sài Gòn đã viết rằng Yersin đã hy sinh cuộc sống cá nhân cho lý tưởng. Ông xem thường danh vọng và những cơ hội thăng tiến.

Yersin không phải là một nhà truyền giáo bình thường. Trong suốt hơn 50 năm Yersin sống tại Việt Nam, chúng ta không rõ có bao nhiêu người tin nhận Chúa qua chức vụ của ông. Mục sư Jacques Pannier cho biết một số phụ tá của Yersin là tín hữu Tin Lành. Điều mà chúng ta biết là nhiều người Việt quý mến Alexandre Yersin.  Ngày nay, một số địa phương tại Việt Nam có những đường phố và trường học  mang tên Alexandre Yersin.  Đây là một vinh dự hiếm hoi ít người Tây Phương nào có được tại Việt Nam.

Bên cạnh di sản tình cảm đó, Yersin đã góp phần quan trọng trong việc truyền Tin Lành tại cao nguyên Việt Nam.  Như David Livingstone ở Phi Châu, Alexandre Yersin đã thực hiện nhiều cuộc thám hiểm khảo cứu Đông Dương.  Trong khi chính quyền Đông Dương chỉ yêu cầu Yersin thăm dò địa hình và tài nguyên, Alexandre Yersin đã chú trọng đến việc nghiên cứu con người.  Những ghi chú của Yersin trong các cuộc thám hiểm ghi lại sự phân bố các dân tộc thiểu số cùng phong tục và tập quán của họ.  Những tài liệu căn bản về nhân chủng học này đã giúp các nhà truyền giáo Tin Lành trong việc truyền giáo cho các dân tộc thiểu số tại Việt Nam trong những năm về sau.

Alexandre Yersin cũng giữ liên lạc với các mục sư người Pháp tại Việt Nam.   Mục sư Jacques Pannier, quản nhiệm Hội Thánh Tin Lành Pháp tại Hà Nội, trong bút ký Trois ans en Indochine (Ba Năm Ở Đông Dương), cho biết ông đã đến thăm Yersin vào cuối tháng 11 năm 1901 tại Nha Trang.  Một lần khác, Mục sư đã ăn tối với Yersin, cùng một người cháu của triết gia Jean-Jacques Rousseau, vào ngày 26/5/1902 tại Hà Nội nhân dịp kỷ niệm ba năm Yersin làm Viện Trưởng Đại học Y Khoa Hà Nội. Có lẽ qua sự cố vấn của Yersin, Paul Monet, một nhà truyền giáo Tin Lành Pháp, đã tập trung nổ lực truyền giáo cho sinh viên và thanh niên tại Hà Nội.  Một số sinh viên Việt Nam tham dự Câu Lạc Bộ Thanh Niên của Paul Monet là sinh viên Đại Học Y Khoa Hà Nội, là trường đại học do Yersin sáng lập; cùng sinh viên học sinh của những trường khác. Một trong những người đã tham gia sinh hoạt tại Câu Lạc Bộ Thanh Niên Tin Lành Hà Nội là Phạm Duy Khiêm, anh trai của nhạc sĩ Phạm Duy, về sau đã trở thành Đại sứ của Việt Nam Cộng Hòa tại Pháp.

 8. Vài Nhận Xét

Alexandre Yersin là một con người trầm lặng và cũng là một nhà truyền giáo trầm lặng.  Yersin đã từ bỏ những danh vọng để đi theo tiếng gọi của Chúa. Yersin theo Chúa và hầu việc Ngài cách âm thầm; thậm chí hằng trăm năm sau vẫn ít người biết đến.

Với những cơ hội đã có, Yersin có thể chọn con đường dễ dàng hơn để thành đạt.  Nếu Yersin ở lại Pháp, làm việc với Viện Pasteur Paris, Yersin không thiếu cơ hội để nghiên cứu và có thể nhận giải thưởng Nobel về Y Khoa như một số đồng nghiệp của ông là Emil Adolf von Behring (Nobel 1901), Alphonse Laveran (Nobel 1907), và Charles Nicolle (Nobel Prize 1928).

So với các giải Nobel Y Khoa khác, công trình nghiên cứu tìm ra nguyên nhân của bệnh dịch hạch và sự thành công trong việc phát minh ra thuốc ngừa dịch hạch là những công trình nghiên cứu rất quan trọng. Trước khi Yersin khám phá ra nguyên nhân của dịch hạch, mỗi năm hàng chục ngàn người trên thế giới đã chết vì bệnh này. Trong thế kỷ 14-15, hàng triệu người tại Âu Châu đã chết vì dịch hạch. Nhiều thành phố làng mạc đã bị xóa tên hẳn trên bản đồ.  Theo một ước tính của một số nhà nghiên cứu, dịch hạch đã làm dân số thế giới giảm từ 450 triệu xuống 350-375 triệu người trong thế kỷ thứ 15.

Để được xét duyệt giải Nobel, các ứng viên cần có người giới thiệu và vận động.  Các quốc gia liên hệ với Yersin là Thụy Sĩ, Pháp, Việt Nam có thể làm điều đó; tuy nhiên có lẽ điều này trái với nguyện ước của Yersin nên không ai thực hiện.   Công tác nhân đạo của Yersin cũng xứng đáng để nhận Nobel Hòa Bình như Albert Schweitzer, một nhà truyền giáo Tin Lành trong lĩnh vực y khoa, đã nhận vào năm 1952.  Tuy nhiên, Yersin đã không tìm kiếm những vinh quang đó.

Yersin đã cống hiến rất nhiều cho Việt Nam.  Ngoài việc chế tạo huyết thanh trừ dịch hạch, việc sáng lập ngành thú y Việt Nam, việc nghiên cứu về nông lâm súc, việc trồng cây ký ninh đã dẫn đến thành công trong việc chế tạo thuốc trừ sốt rét là một bệnh nguy hiểm tại Việt Nam và Á Châu vào lúc đó. Đây cũng là một đóng góp rất quan trọng cho ngành dược tại Việt Nam.

Nhờ uy tín của  Yersin, Viện Pasteur Đông Dương được thành lập.  Viện nghiên cứu này là một trong những viện nghiên cứu y khoa hàng đầu thế giới về dịch tể học vào đầu thế kỷ 20.

Giáo sư Đoàn Xuân Mượu cho biết trong suốt hơn 100 năm qua, Đại Học Y Khoa Hà Nội mà Yersin sáng lập đã đào tạo biết bao nhân tài cho Việt Nam.  Các bác sĩ từ trường này đã cứu chữa biết bao người Việt trong những năm sau đó.

Yersin nổi tiếng là nhà nghiên cứu về vi sinh vật học và là một nhà nghiên cứu địa dư; tuy nhiên Yersin cũng là nhà nghiên cứu khí tượng và thiên văn. Yersin có lần nói rằng: “Tôi là người nghiên cứu thế giới vi mô nhưng làm sao tôi bỏ qua thế giới vĩ mô được.”  Qua những công trình nghiên cứu địa lý, thiên văn, và qua ảnh hưởng của Yersin, chính quyền Pháp tại Đông Dương đã cho thành lập Sở Địa Dư (Service Géographique), Sở Địa Chất (Service Géologique), Sở Khí Tượng (Service Météorologique), Đài Thiên Văn (Observatoire), và Hải Học Viện (Institut Océanographique).  Đây là những cơ sở nghiên cứu khoa học đầu tiên của các ngành này tại Việt Nam.

Từ đầu thế kỷ 20, thành phố Nha Trang được nhiều người trên thế giới biết đến nhờ Yersin định cư tại đây.   Thành phố Đà Lạt và cao nguyên miền Trung được khai phá qua công trình nghiên cứu của Yersin.

Yersin cho trồng cao su tại Việt Nam vào năm 1899.  Mùa thu hoạch đầu tiên đã được hãng Michellin mua; vỏ xe của Michellin ngày nay nổi tiếng khắp thế giới.

Nhờ  Yersin, Việt Nam ngày nay trở thành một trong những nước sản xuất cà phê nhiều nhất trên thế giới.  Những công ty trà và cà-phê Việt Nam thành công trong việc kinh doanh hiện nay một phần nhờ công khó của Yersin. Hàng trăm ngàn người Việt ngày nay có việc làm và cuộc sống ổn định nhờ trồng hoặc chế biến trà, cà phê, đào, mận, dâu, cà rốt, bắp cải, rau quả mà Yersin đã nghiên cứu trồng gần 100 năm trước.  Nhiều loại rau trái cây mà người Việt dùng hàng ngày do Yersin nhập vào lúc đó.

Alexandre Yersin đã sống tại Việt Nam hơn 50 năm.  Thật khó có thể phân tích đầy đủ giá trị những cống hiến của Yersin cho Việt Nam. Dân tộc Việt Nam là dân tộc có lòng tri ân.  Có lẽ đã đến lúc người Việt nên làm một điều gì đó, với danh nghĩa một quốc gia, để tri ân một người đã đóng góp rất nhiều cho Việt Nam.

 

Theo thuvientinlanh.org

Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com 

Bình Luận:

You may also like