Home Lời Chứng Từ Nhà Sư Đến Giang Hồ Thái Lan, Ân Điển Chúa Làm Tôi Tan Vỡ

Từ Nhà Sư Đến Giang Hồ Thái Lan, Ân Điển Chúa Làm Tôi Tan Vỡ

by ChristianToday
30 đọc

Được bao phủ bởi rừng rậm ẩn sâu trong màn sương mù nhiệt đới, làng Mae Sot gần biên giới Thái Lan – Myanmar nổi tiếng với hoạt động buôn bán đá quý và gỗ tếch. Nhưng bên dưới vẻ bề ngoài tươi đẹp này, ngôi làng là trung tâm của hoạt động buôn lậu xuyên biên giới, ma túy, và buôn người. Cuộc nội chiến kéo dài hàng thập kỷ của Myanmar có thể được cảm nhận ở Mae Sot: người dân thường nghe thấy tiếng súng, thỉnh thoảng thấy đạn pháo rơi trên đường, và hàng ngàn người tị nạn vượt biên vào thị trấn mình.

Giữa tình hình hỗn loạn này, mục sư người Thái Somphon Sriwichai (mục sư của Hội-thánh Mae Sot Foursquare)tìm cách lập lại trật tự. Hội thánh của ông mở một trường học cho trẻ em nhập cư từ Myanmar và mái ấm cho các em nhỏ có nguy cơ bị buôn người. Họ cũng cung cấp nơi ở cho người tị nạn và cứu trợ sau thảm họa. Chuyện đời mục sư Sriwichai – từ một nhà sư Phật giáo, đến một tay xã hội đen, rồi trở thành một giáo sĩ sau đó là mục sư – thể hiện quyền năng của đấng Christ trong việc biến đổi đời sống, cộng đồng, và cả những nơi như làng Mae Sot.

Đây là câu chuyện cuộc đời của Sriwichai.

Được dâng cho chùa

Tôi sinh năm 1959 ở làng Nong Bua thuộc Chiang Mai, một vùng núi phía Bắc Thái Lan. Mẹ tôi mất khi sinh tôi. Khi còn bé, tôi bị bệnh rất nặng nhưng gia đình không có tiền cho tôi đi bệnh viện. Thay vào đó, họ mời một thầy lang và thầy mo Thái Lan đến chữa cho tôi. Họ làm thuốc thảo dược, tiến hành các nghi lễ cúng bái và hiến tế một con gà, nhưng chẳng có tác dụng gì. Không còn lựa chọn nào khác, cha đem tôi đến một ngôi chùa trong vùng và thề trước tượng Phật rằng nếu tôi khỏi bệnh, tôi sẽ đi tu. Từ lúc đó, tôi bắt đầu phục hồi.

Khi được 8 tuổi, tôi bắt đầu đến sống trong chùa và sau đó xuất gia làm chú tiểu. Tôi nhớ cha đã nói với mình rằng tôi không còn là con ông nữa – tôi giờ là con trong chùa.

Một ngày ở chùa bắt đầu lúc 3 giờ sáng, tôi thức dậy để ngồi thiền và học Phật pháp. Sau đó, chúng tôi sẽ tụng kinh, cầu nguyện, đi khất thực, và ăn sáng. Rồi các chú tiểu như tôi sẽ rửa chén dĩa, quét dọn, và đi bộ đến trường làng cách đó gần 3 cây số.

Cuộc sống của một nhà sư trẻ không hề dễ dàng, vì chúng tôi không được ăn sau chánh ngọ (12 giờ trưa). Học xong, tôi đi bộ về chùa để quét dọn sân chùa. Buổi tối, chúng tôi sẽ ngồi dưới chân một sư trưởng để tụng kinh và học Phật pháp. Lúc đó, tôi chỉ muốn được chơi đùa, ăn uống, và la hét cười đùa như một đứa trẻ bình thường, nhưng nhà chùa có rất nhiều quy tắc luật lệ.

Đến năm 19 tuổi, tôi chịu hết nổi: làm sao một người có thể được bình an khi họ đang đói? Đời sống của tu sĩ trên chùa không đem lại cho tôi sự bình an. Vậy nên tôi quyết định từ bỏ đời sống tu hành.

Sa vào bóng tối

Tôi trở về nhà sống với cha và bắt đầu đắm chìm trong những thú vui thế tục: uống rượu, hút thuốc, và những thứ bị cấm trong chùa. Cuộc đời tôi bước sang một trang tối khi tôi bắt đầu giao du với bọn tội phạm, những kẻ buôn bán ma túy và giết người.

Sau khi gia nhập một băng đảng, tôi sớm nhận ra mình phải tuân theo một bộ luật mới. Tôi phải tuân theo mệnh lệnh của kẻ cầm đầu nếu không sẽ có hậu quả nặng nề. Tôi phải liên tục thay đổi chỗ ở, trốn tránh cảnh sát và các băng đảng tội phạm khác.

Cuối cùng tôi ẩn náu trong khu vực rừng núi xung quanh Chiang Mai, sống với những người cộng sản chống đối chính quyền những năm 70 và 80. Những cuộc đấu súng ác liệt thường xuyên nổ ra, và một lần, cảnh sát bắt tôi vì dính dáng tới cộng sản. Ma túy và rượu trở thành liều thuốc xoa dịu cơn giận và những cảm xúc dữ dội trong tôi.

Vào một đêm khi tôi 29 tuổi, tôi đang uống say và sử dụng ma túy với bạn thì nghe người ta ca hát. “Tiệc gì vậy?” tôi hỏi. Anh bạn tôi trả lời, “Tiệc tùng gì, đó là mấy người theo đạo Cơ-đốc.” Tò mò, tôi quyết định đến xem.

Tôi đứng trước cửa nhà, nhìn chằm chằm vào đám đông đang ngồi dưới sàn. Tôi biết mình trông đáng sợ: một gã say xỉn với mái tóc dài, bộ râu bết, quần áo bẩn thỉu, và vẻ ngoài phong trần của một kẻ nghiện ngập. Mọi người đều sợ nhìn thẳng vào mắt tôi.

Nhưng người nhóm trưởng nhìn thẳng vào tôi. Ông ta mìm cười và mời tôi vào. Ngay lập tức, tôi không tin tưởng ông. Tại sao lại có người mời một kẻ nguy hiểm vào nhà mình? Tôi ngồi đối diện với người trưởng nhóm, chờ đợi một cuộc đối đầu.

Sau giờ thờ phượng, tôi thách thức người trưởng nhóm với nhiều câu hỏi. Từng là nhà sư trong chùa, tôi có thể khiến ông bối rối bằng những câu hỏi của mình. Nhưng ông đáp lại cách bình tĩnh bằng cách giải thích Phúc Âm cho tôi. “Nếu anh tin, anh sẽ thấy ân điển của Đức Chúa Trời”, ông nói. Tôi nghĩ thầm, trong đạo Phật, không có ân điển. Không có sự tha thứ. Nếu ta làm lành, ta sẽ nhận được điều tốt. Nếu ta làm ác, ta sẽ nhận lại điều ác.

Tôi biết rằng, theo đạo giáo của mình, tôi đã được định phải bị đày xuống một tầng địa ngục vì những chuyện xấu mình đã làm. Tôi bắt đầu băn khoăn về ân điển này và hy vọng vào sự tha thứ này. Vậy nên tôi hỏi người trưởng nhóm, “Ân điển này ở đâu và làm sao tôi có thể nhận được nó?

Người trưởng nhóm trả lời, “Rất dễ. Anh chỉ cần cúi đầu, nhắm mắt lại, và cầu nguyện theo tôi.” Một cách khó khăn, tôi nhắm mắt lại trong khi vẫn đề phòng, trong trường hợp ông ta tấn công mình. Tôi sẵn sàng bắn chết ông ta nếu ông ta có bất kỳ hành động bất ngờ nào. Nhưng khi tôi lập lại lời cầu nguyện, có cái gì đó trong tôi vỡ vụn. Tôi bắt đầu khóc. tôi cảm thấy vô số tội lỗi của tôi đã được tha thứ. Tôi đã được thay đổi nhưng không biết phải làm gì tiếp theo.

Ba tháng sau, tôi đến Chiang Mai vào một ngày Chúa Nhật và nhìn thấy một tấm bảng thông báo về một buổi nhóm hội thánh trong một nhà máy. Muốn biết thêm về Chúa Giê-xu, tôi đã bước vào. Bất chấp dáng vẻ giang hồ của tôi, mọi người vẫn nồng nhiệt chào đón tôi và mời tôi lên hàng ghế đầu. Khi mục sư kêu gọi tin nhận Chúa, tôi cầu nguyện một lần nữa và khóc. Từ ngày đó, tôi xem mình là một Cơ-đốc nhân.

Tôi cắt tóc, cạo râu, và tham gia cộng đồng Cơ-đốc nhân. Tôi không trốn chạy nữa, và thấy rằng chẳng ai đuổi theo tôi nữa. Cảnh sát và các băng đảng đã chán tôi. Sau khi tham gia khóa huấn luyện Kinh Thánh 3 tháng, hội thánh cử tôi đi giúp một hội thánh mới gây dựng ở Chiang Dao, cách Chiang Mai hơn 70 km về phía Bắc.

Đi theo sự kêu gọi của Chúa

Sau một năm ở Chiang Dao, tôi cảm thấy được kêu gọi đến sống giữa những người dân tộc Lahu và chuyển đến làng Nongkhiu. Tôi chẳng biết ai ở cộng đồng đó. Trừ một vài bạn trẻ, chẳng ai nói tiếng Thái và tôi cũng không biết tiếng Lahu. Tôi không thể chia sẻ Phúc Âm cho họ, nhưng tôi có thể sống giữa họ và làm chứng bằng đời sống mình.

Mỗi sáng, tôi sẽ lên núi để cầu nguyện. Người dân làng thấy tôi và theo tôi lên núi. Tôi hát những bài hát thờ phượng và người Lahu cũng hát theo tôi, lặp lại lời bài hát và tập hát theo. Tôi đọc một đoạn Kinh Thánh trước khi ăn. Những người khác sẽ ngồi với tôi và lắng nghe. Dù họ không hiểu những lời này, họ sẽ hiểu qua đời sống tôi. Ngày nay, hàng trăm người trong làng đó là Cơ-đốc nhân, một số thành mục sư, và nhiều người vẫn rất thân với tôi cho tới tận bây giờ.

Sau gần 1 năm, tôi muốn biết thêm về Lời Chúa và quyết định theo học tại một trường Kinh Thánh thuộc quận Fang, ở vùng cực bắc Thái Lan. Một lần nữa, chỉ sau một thời gian ngắn, hiệu trưởng trường Kinh Thánh thuyết phục tôi đi cùng ông tới Bangkok để mở một hội thánh ở khu ổ chuột Khlong Toei. Ông nghĩ rằng với quá khứ giang hồ của mình, tôi có thể dễ dàng tiếp cận người dân ở đó. Nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng Chúa không kêu gọi tôi đến đó.

Một Chúa Nhật vào năm 1989, tôi chia sẻ với hội thánh tại Bangkok khải tượng tôi nhận được từ Chúa. Trong giấc mơ, tôi thấy một con heo nái đen đang mang bầu nhưng không có chỗ để sinh con. Một người vác nó lên rồi mang nó đến trước ba căn nhà. Con heo liền vùng ra khỏi tay người đàn ông, chạy ra sau căn nhà cuối cùng, và sinh ra những chú heo con trắng và đen rồi bắt đầu cho chúng bú. Ngày càng có nhiều heo con xúm lại xung quanh heo mẹ cho đến khi nó bị lấp bởi một núi heo con.

Ít lâu sau, trong một chuyến đi với mục sư của mình, tôi đến thăm làng Mae Sot. Đột nhiên, tôi nhận ra đây là nơi mình đã thấy trong khải tượng! Tôi thậm chí còn nhận ra ba căn nhà trong giấc mơ đó. Tôi thuê chúng và mở hội thánh ở căn cuối cùng.

Mỗi ngày tôi đi khắp làng Mae Sot và cầu nguyện lớn tiếng, chẳng bao lâu sau tôi bị mang tiếng là một Cơ-đốc nhân lập dị. Nhưng hội thánh bắt đầu phát triển. Tôi chia sẻ Phúc Âm tại bệnh viện và trạm xe buýt cho bất cứ ai muốn nghe và cầu nguyện với bất cứ ai muốn tin nhận. Nhiều người được chữa lành, trong đó có một người phụ nữ được giải phóng khỏi tà linh.

Dù vậy, tấm lòng của tôi dành cho người Lahu chưa bao giờ nguội lạnh. Vào Ngày Của Mẹ năm 1990, tôi chạy xe máy tới làng Lahu ở Doi Muser thuộc vùng núi phía trên Mae Sot. Tôi bước vào giữa làng và xin được rao giảng. Khi được phép, tôi bắt đầu giảng Tin Lành. Dù có nhiều người tụ tập lại nghe, nhưng chỉ hai người có vẻ quan tâm tới sứ điệp này.

Sau khi giảng xong, hai người ấy thách thức tôi. “Nếu Chúa Giê-xu thật sự là một Đức Chúa Trời vĩ đại và có quyền năng như vậy, hãy đến và cầu nguyện cho thầy mo của làng chúng tôi.” Tthầy mo này đã ngã bệnh ít nhất một tuần, đang nằm một mình trong lều. Tôi đến nhà ông và bước vào một căn phòng tối có mùi ẩm mốc. Người này bệnh rất nặng, gần như không cử động được.

Tôi quỳ xuống và trình bày câu chuyện về Chúa Giê-xu cho ông. Tôi không biết ông có nghe hay không, nhưng tôi hỏi ông có muốn được chữa lành không. Ông gật đầu. Khoảng 15 phút sau khi chúng tôi cầu nguyện, ông ngồi dậy và nấu ăn cho chúng tôi. Hai người thách thức tôi cùng thầy mo đó đã quyết định theo Chúa Giê-xu. Đây là hội thánh đầu tiên trong số nhiều hội thánh được thành lập giữa các bộ lạc miền núi xung quanh Mae Sot.

Phục vụ Chúa ở ngôi làng biên giới

Ngày nay, hội thánh ở Mae Sot tổ chức các buổi nhóm trong 3 ngôn ngữ: tiếng Thái, tiếng Karen (ngôn ngữ của người Karen ở Myanmar và Thái Lan), và tiếng Myanmar. Tuy nhiên, vì hầu hết người Myanmar ở Thái Lan đều là dân cư trú bất hợp pháp, nên chúng tôi bắt đầu nhóm tại nhà thay vì ở hội thánh. Hiện tại, chúng tôi đang xây một tòa nhà mới có sức chứa 500 người.

Chúng tôi phục vụ cộng đồng bằng cách mở một trường học cho con em của những người lao động nhập cư trong thị trấn. Trường có hơn 300 học sinh, từ lớp 1 đến lớp 7. Chúng tôi cũng có 3 căn nhà gần hội thánh dành riêng cho các em có nguy cơ bị bạo hành hay là nạn nhân của nạn buôn người, một căn cho các em trai và hai căn cho các em gái. Hội thánh cũng xây dựng một quỹ tương trợ sử dụng trong những thời điểm thiên tai, bao gồm lũ lụt, hỏa hoạn và các thảm họa khác. Người tị nạn ở Myanmar chạy sang biên giới để trốn chiến tranh thường sống và ngũ giữa những hàng cây mọc xung quanh hội thánh nên chúng tôi giúp cung cấp thức ăn và y tế cho họ.

Giờ tôi nhìn lại, cuộc đời cũ của mình đã qua đi. Tôi từng sống trong bóng tối không có tương lai. Tôi từng sống giữa những người bị xã hội chối bỏ, nhưng Chúa Giê-xu đã biến đổi cuộc đời tôi và kêu gọi tôi phục vụ Ngài. Tôi chỉ tốt nghiệp lớp 9 và chưa từng học Kinh Thánh cho tới khi Chúa cho phép tôi trở thành người làm chứng cho Ngài và phụng sự Ngài.

Tôi muốn khích lệ và thách thức cả thế hệ trẻ lẫn những người lớn tuổi hãy dâng mình phụng sự Chúa. Chúa không cần kiến thức của chúng ta mà cần tấm lòng của chúng ta. Khi bạn thay đổi đời sống mình và quyết định bước đi với Chúa, Ngài sẽ dùng bạn cho các việc lành. Nếu Chúa có thể dùng một người đã chết và vô giá trị như tôi, Ngài có thể dùng bất kỳ ai.

Dịch: Richard Huynh

Nguồn: christianitytoday.com

Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com

Bình Luận:

You may also like