Hôm nay tình cờ lướt facebook (fb) tôi thấy có mấy dòng tin nhắn của một vị mục sư trẻ gởi cho ban thanh niên của một hội thánh với nội dung như thế này: “Các em ơi, đừng có chơi trò chơi bói tuổi trong mạng nữa các em nhé. Các em có tin kết quả như vậy không, thầy nghĩ các em chỉ chơi cho vui, nhưng không nên chơi các em nhé. Chúa sẽ buồn lắm khi thấy các em làm như vậy”. Tôi không thường vô fb của các bạn trẻ trong ban thanh niên đó nên khá ngạc nhiên khi đọc được điều này. Hỏi qua người thân còn bảo bây giờ mấy bạn thanh niên cơ đốc còn xem cả cung hoàng đạo nữa. Tôi để ý lại thì thấy đúng thật trên mạng dạo này rộ lên rất nhiều phong trào bói toán kiểu vui vui như: xem tên biết tính người, bói tình yêu theo cung hoàng đạo… Tôi nghĩ chắc là các bạn chỉ chơi cho vui. Nhưng. Không phải cái vui nào cũng đúng.
Nhân chuyện này tôi nhớ lại thời mình còn học phổ thông, cũng từng chơi bói cho vui theo phong trào. Thời đó internet chưa thông dụng như bây giờ, đặc biệt là chưa có fb để dễ dàng đẩy “cái vui của một người thành cái vui của cả hội”, có điều, tôi là người mê đọc báo Mực tím, Hoa học trò… và tuần nào cũng học từ trong đó vài kiểu bói vui để áp dụng mỗi ngày, nhiều bạn trong lớp trong trường tôi cũng chơi giống tôi như vậy. Lúc đó tôi chưa hiểu biết lời Chúa nên không thấy mình làm gì sai, mỗi ngày, tâm trạng vui buồn được điều khiển bằng một bài bói nhỏ. Tôi nhớ lúc đó cũng có mấy kiểu bói xem ngày tháng sinh để biết ngày nào trong tuần là ngày may mắn, rồi bói xem tên mình và tên người ấy có hợp nhau không, rồi gạch xổ bất kỳ 3 dòng để tính xem hôm đó là ngày vui hay buồn, đến cả hột gạo tấm nổi lên trên móng tay cũng xem là trên ngón nào để biết là “buồn, vui, xui, tình” hay là “bạn”… Mỗi khi bài bói có đáp án theo như ý mình mong muốn thì tôi vui, còn nếu có trục trặc gì thì … tôi bói lại, miễn sao cuối cùng như ý tôi là được!!! Nói chung lúc đó cũng không phải vì hoàn toàn tin mà chơi, nhưng nếu nói là không tin chút nào cũng là nói dối. Về sau khi tôi tin Chúa một cách cá nhân, đọc Kinh Thánh, hiểu biết lời Chúa, đặc biệt là phân đoạn Kinh Thánh Phục Truyền Luật Lệ Ký 18 : 9-12: “Khi ngươi đã vào xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho, chớ tập bắt chước những sự gớm ghiếc của các dân tộc ở tại đó. Ở giữa các ngươi chớ nên có ai đem con trai hay con gái mình ngang qua lửa, chớ nên có thầy bói, hoặc kẻ hay xem sao mà bói, thầy phù thuỷ, thầy pháp, kẻ hay dùng ếm chú, người đi hỏi đồng cốt, kẻ thuật số, hay là kẻ đi cầu vong; vì Đức Giê-hô-va lấy làm gớm ghiếc kẻ làm các việc ấy, và vì các sự gớm ghiếc ấy, nên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đuổi các dân tộc đó khỏi trước mặt ngươi” thì tôi mới nhận ra, cái vui một thời của mình trước mặt Chúa là sai trật đến độ nào. Cảm ơn Chúa đã tha thứ cho kẻ không biết như tôi và mở mắt tôi mỗi ngày.
Ngẫm lại câu chuyện của các bạn thanh niên trong hội thánh ngày hôm nay, tôi có vài điều băn khoăn. Một, là các bạn đang giống như tôi hồi xưa, vì không biết lời Chúa nên chơi bói cho vui, vậy thì các bạn đừng vui như thế nữa và nên dùng thời gian đó để tra xem lời Chúa thì hơn. Hai, là các bạn hiểu biết lời Chúa nhưng thấy rằng mình chơi bói cho vui, cho có phong trào với mấy bạn trên fb thôi chớ mình không tin, không làm theo thì cũng không có gì là sai. Các bạn có dám chắc là mình không tin chút nào không, các bạn có dám chắc là cảm xúc của các bạn không chịu một chút sự chi phối nào của những bài bói vui đó không? Và rồi những anh em khác, những người chưa biết Chúa nhìn vào trang fb của các bạn có thấy các bạn khác gì họ không, họ có bị ảnh hưởng bởi điều các bạn đang làm hay không? Quan trọng hơn nữa là, Chúa có vui lòng với cái vui đó của các bạn hay không? Tôi nghĩ, các bạn nên đến với Chúa cách riêng tư để xin Ngài tha thứ…
“Người trẻ tuổi phải làm sao cho đường lối mình được trong sạch?
Phải cẩn thận theo lời Chúa”
(Thi Thiên 119 : 9)
Tôi Viết
Ta quen nhau mấy mùa xuân năm trước
Tình yêu nồng dưới bóng cánh Chúa Cha
Đời đẹp tươi như ánh nắng chan hòa
Hai đứa nguyện vun trồng xây mơ ước.
“Rồi ngày tháng trôi qua đi lần lượt
Em nhìn đời với hạnh phước biết bao
Có những đêm ôm thương nhớ dạt dào
Viết nhật ký trao nhau làm kỷ niệm…”*.
Anh thường nói: Tình yêu Cha bất biến
Tình mình như giọt nước giữa biển Đông
Anh tặng em nụ hôn nồng ngày ấy
Chúa yêu ta Ngài xuống tận nơi nầy.
Khi tạo dựng nên muôn loài vạn vật
Dựng anh trước… giữa khu vườn đẹp đẽ
Nhưng thiếu em Chúa đã cảm thấy buồn
Từ nơi anh Ngài làm ra em đó!
Hai nên một trong Địa đàng phước hạnh
Hưởng trái cây và chăm sóc vườn nhà
Ôi! Tuyệt vời… Ngài là Cha nhân ái
Ban cho ta gái trai đều lộng lẫy.
Và hôm nay Ngày Tình Yêu đã đến*
Anh bùi ngùi nhớ lại những ngày qua
Ta bên nhau vượt cám dỗ ban đầu
Dành cho Chúa một tình yêu trong sáng.
Ngày phía trước… gian nan hay sáng lạn
Tương lai nầy hãy phó thác trong Cha
Ngài chở che, dẫn dắt qua sơn hà
Cập bến tình… trổ hoa nơi sa mạc.***
Ngày Tình Yêu anh tặng em bản nhạc:
“Đôi chim hồng đám cưới” của uyên ương
Và bài thơ dạt dào trong tâm tưởng
Dâng mối tình vọng ngưỡng lên Giê-xu.
Mừng xuân sang – Thiệp cưới ép mai vàng
Báo tin vui… Ta hân hoan vui thỏa
Lòng sướng vui cảm tạ Chúa nhân lành
Ban hạnh phúc – Ngày Tình Yêu đôi lứa.
Ghi chú:
***- Thơ: Nguyễn Thị Lan
**- Ngày Tình Yêu (Valentine)14 tháng 02 hàng năm.
***- Ê sai 35.
Hồ Thi Thơ
Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Bài học hôm nay được cô Tâm Đoan chia sẻ ở Kinh thánh Tin Lành Ma-thi-ơ 19:16-30 với Đề tài: Giá phải trả để làm môn đệ Chúa. Qúy vị có thể tham khảo thêm sách Tin Lành Lu-ca 18:18-30 và sách Tin Lành Mác 10:17-31
…Trời đã sang xuân, khí trời se lạnh một cảm giác thỏa mái, dễ chịu. Nhìn sang cửa sổ bên kia, cô thấy mấy vò phong lan đang trổ những nụ hoa xinh xinh tím biếc. Trăng cuối tuần chênh chếch, ánh sáng mờ dịu xuyên qua cửa sổ trông thật huyền ảo.
Gần một năm Việt Huân đã đi vào tù kể từ sau tuần trăng mật ngày cưới…
Lời Chúa từ chiếc radio Sony 911 của Nhật cứ ấm áp và cho cô nhiều trăn trở:
“…Khi chàng thanh niên bỏ đi trong bộ đồ sang trọng của một vị quan. Phi-e-rơ nhìn chàng tỏ vẻ khinh bỉ rồi xây qua Chúa Giê-xu mà tự mãn: “…Nầy tôi bỏ mọi sự mà theo Thầy tôi được gì đây? Câu 27. Đó chẳng phải là một câu hỏi tỏ ra tinh thần buồn chán. Mà là so đo tính toán thiệt hơn của sự cám dỗ của thế gian. Nhưng Chúa Giê-xu không dạy cho chàng ngay lúc đó, cốt ý Ngài không quở trách vì Ngài biết rằng: Sau khi được Ngài kêu gọi Phi-e-rơ liền bỏ thuyền, bỏ lưới và bỏ cả cha mẹ để theo Ngài. Câu 24: Con Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Đức Chúa Trời. Chữ Kamilos đồng âm với chữ Kamolos đều là danh từ cả. Nhưng chữ Kamilos trong tiếng Hy lạp có nghĩa là Dây thừng còn chữ Kamelos có nghĩa là con Lạc đà. Chỉ khác nhau ở một âm (i) và (o) mà ý nghĩa hai danh từ nầy lại hoàn toàn khác nhau.
Chúng ta được biết rằng Lạc đã là con vật to lớn nhất ở Palestine còn sống sót. Voi bị tiêu diệt từ lâu, con trâu nước thì ít có. Nếu chưa bị tiêu diệt ở sông Giô đanh khí hậu hầu như nhiệt đới. Ngay cả con bò rừng to lớn ở Ba-san ngày nay cũng chỉ là kỷ niệm. Cửa kim chính là cửa hầm trong vách thành, do đó muốn đẩy con Lạc đà qua thì cũng rất khó khăn ít nhất con vật phải quỳ mọp xuống, rồi cởi bỏ hết hàng hóa ra. Ở đây Chúa Giê-xu tiếp xúc với vị quan giàu có nhưng phải mang nỗi buồn ra đi, vì ông có nhiều của cải đời nầy nhưng không đánh đổi được sự cứu rỗi linh hồn. Gợi lên cho Ngài nghỉ tới con Lạc đà là con vật có tính khí xấu nết. Như câu chuyện Người giàu có và La-xa-rơ. Con Lạc đà giống như một Dây thừng (sợi chỉ), ý nghĩa là cơ hội để được vào cõi Thiên đàng thì người nghèo khổ ở trước cửa để người Giàu có giúp đỡ La-xa-rơ. Ngài ban cho Phi-i-rơ một lời hứa câu 28: “Chúa Giê-xu đáp: Ta quả quyết với các con: Đến lúc ta ngồi trên ngai vinh quang trong nước trời. Các con là môn đệ ta cũng sẽ ngồi trên mười hai ngai để xét xử mười hai đại tộc Y-sơ-ra-ên.”
Tất cả chúng ta ngày hôm nay rất cần lời hứa của Ngài để vững tâm. Nhưng đừng để tiếng thì thầm lên tiếng gọi: Tôi đã hy sinh nhiều cho Đấng Christ, cho Hội thánh bây giờ tôi được gì đây?. Ngài phán một lời Đế vương: Khi Ngài trở lại và muôn vật đổi mới chúng ta đồng trị với Ngài tại nơi vinh hiển. Sự hy sinh của chúng ta hôm nay cho Chúa, cho Hội thánh không phải là vô ích 1Cô-rinh-tô 15:58. Thập tự giá mà chúng ta gánh lúc đầu, và gánh thường xuyên, mà phải gánh mỗi ngày Lu-ca 9:23 : “Nếu ai muốn theo Ta thì phải tự bỏ mình đi, vác thập tự giá mình mỗi ngày mà theo Chúa. Thì người ấy sẽ lãnh gấp trăm lần hơn và được sự sống đời đời.” Tuy nhiên Ngài vẫn thêm một lời cảnh báo e lòng tự ti mà sinh ra kiêu căng câu 30: “ Nhiều kẻ đầu sẽ nên rốt và kẻ rốt sẽ nên đầu. Có ý dạy dỗ trực tiếp ông Phi-e-rơ vì ông là một trong ba môn đệ gần gũi Chúa nhất, (Phi-e-rơ, Gia cơ và Giăng) có điều kiện hầu việc Ngài. Trước đó ba lần ông nói ông yêu Chúa, ai chối Thầy chứ nhất thiết tôi theo Thầy. Rồi chính ông cũng đã chối Chúa ba lần trước khi gà gáy. Đức Chúa Giê-xu nhìn người trai trẻ đó, đang làm quan và chỉ làm quan một đời ở trần gian. Còn các môn đệ của Ngài làm quan đời đời.” Lu-ca 22:28.
Bà góa dâng hai đồng xu là đơn vị tiền tệ nhỏ nhất lúc bấy giờ mà được Chúa nhìn nhận hơn những người giàu có. Mác 12:43 và Lu-ca 21:3 “Quả thật ta nói cùng các ngươi mụ góa nghèo nầy đã bỏ nhiều hơn hết cả mọi người khác”. Phi-e-rơ bỏ lưới, thuyền, sinh kế, cha mẹ mà theo Ngài. Ma-ri đã đập vỡ bình dầu quý giá hơn ba trăm đơ-ni-ê tương đương ba trăm ngày công nhật để xức thơm Chúa trước khi Ngài chịu chết. Nhiều người muốn theo Chúa nhưng còn trì hoãn ngày này, ngày mai, cuối cùng mất cơ hội…Tin Lành Ma-thi-ơ 8: 21 còn cho biết “Lạy Chúa, xin Chúa cho phép tôi về chôn cha tôi trước đã.” Câu 22 Chúa trả lời: “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết” Ý Chúa nói ở đây, theo Chúa phải dứt khoát. Bản diễn ý: “Con cứ theo ta ngay để người chết phần tâm linh lo phần mai táng của họ”.
Ở đây cha môn đồ ấy đang đau chứ chưa chết thật. Cha đau ốm thì lo săn sóc nhưng tin Chúa thì quyết tâm thực hiện đức tin để được Chúa cứu. Chứ cứ chờ cha chết mới theo Chúa, tin Chúa e rằng lúc đó mất cơ hội. Nếu chúng ta cứ sống trong tình tinh thần chờ cha chết, chờ xong công việc thì bao giờ mới theo Chúa được?. Để tôi xem lại đám ruộng, coi lại đôi bò hoặc tôi mới vừa cưới vợ xong… đấy là những lý do không chính đáng.
Khi chấp nhận theo Chúa chúng ta thực hiện là chúng ta sẵn sàng trả giá. Có trả giá như vậy chúng ta mới gặp được Chúa. Và rồi phước hạnh tuôn đỗ không những đời sau mà ngay cả trong đời hiện tại. “…Đời nầy vẫn nhận lãnh trăm phần hơn và đời sau được sự sống vĩnh cửu.” Ma-thi-ơ 19: 29. Tin Lành Giăng 10:10: “Ta đến để ban cho chiên được sự sống và được sự sống dư dật.”
Có một câu chuyện kể kết thúc mà cô Tâm Đoan phát thanh viên Đài Nguồn Sống đã làm cho Tuyết Nhung hết sức cảm động qua chương trình Phụ nữ tối nay: Trước thời kỳ chiến tranh, có cụ già ở Huyện Tiên Phước Tỉnh Quảng Nam tin Chúa, ông rất giàu có. Nhưng rồi chiến tranh xảy ra làm cụ tan nát hết cả tài sản, con cái. Cụ phải đi tản cư ra thành phố, cụ ở trong ngôi nhà lụp xụp. Có người biết được hoàn cảnh của cụ trước kia nên tìm cách an ủi cụ, nhưng cụ vui vẻ trả lời bằng bốn câu thơ:
“Một căn nhà lá vách thưa thưa
Chúa ở cùng tôi thế cũng vừa
Chớ tưởng cái nghèo mà đeo cái khổ
Hỏi ai giàu đã sướng gì chưa?”
Họ cứ tưởng cụ nghèo cụ sẽ khổ, nhưng không phải vậy. Cụ nghèo mà lòng cụ có Chúa cụ thấy sống rất bình an trong tâm hồn. Vì Tin kính và thỏa lòng ấy là một lợi lớn trong cụ. Cụ mới vặn hỏi lại họ, chưa chắc ai giàu mà đã được sung sướng, khi chưa tiếp nhận Chúa làm Cứu Chúa của đời sống mình. Như có cuộn phim đã trình chiếu Người giàu cũng khóc sản xuất ở nước Ca-na-da.
Lời Chúa đã khích lệ Tuyết Nhung nhiều lắm. Cô không hối tiếc về cuộc hôn nhân của cô với Việt Huân. Để rồi cô phải nhận chịu một sự thiệt thòi mất mát. Trong khi cô mới tuổi hai mươi hai tràn đầy sức sống và niềm tin về cuộc sống tương lai. Trong khi cô là nhân viên kế toán văn phòng xinh đẹp của Phòng Thương nghiệp tổng hợp Huyện Đại Lộc. Đầu thập niên tám mươi của thế kỷ trước. Quả là, thời kỳ đó mà có chân làm việc cho Nhà nước thì không dễ gì, trong khi lý lịch của cô là người theo Tôn giáo Tin Lành.
Ngày ấy cũng có rất nhiều cán bộ có chức có quyền đeo đuổi. Vậy mà cô đã quyết định chọn anh, một người lính chiến thực thụ từ chiến trường Cam-pu-chia vừa mới trở về, sau cuộc chiến tàn khốc ở biên giới Tây nam Tổ quốc. Biết anh là một Sĩ quan vừa tốt nghiệp ra trường sau một năm đào tạo ở Trường Quân chính Quân khu 7. Anh đã trải qua những ngày tranh đấu quyết liệt trong lòng để giữ trọn niềm tin. Biết anh có địa vị trong Quân đội, có quyền lợi và vị trí Chính trị, và ngày anh về có nhiều huân, huy chương các loại. Biết anh là Biên Tập viên của Đài Truyền thanh cơ sở.
Nhưng rồi anh phải trả giá để theo Chúa. Vì bảo vệ niềm tin để tiếp tục đi thờ phượng Chúa và hầu việc Ngài. Chỉ một vài tranh luận gay gắt quan điểm về Chủ thuyết Mác – Lê nin và Niềm tin Thiên Chúa trong một vài cuộc họp hoặc hội thảo nào đó có liên quan. Rồi có sự xảy ra bất ổn chính trị ngẫu nhiên tại địa phương, trong lúc bấy giờ đã đẩy anh vào chốn lao tù. Trong khi đó nhà anh là gia đình Liệt sĩ vì em anh đã hy sinh tại chiến trường Cambodia khi anh về nhà chưa được một năm.
Tuyết Nhung không quên ngày anh bị bắt vào tù, một tối ba mươi tết âm u năm 1984. Cô vẫn về thăm mẹ anh, để an ủi bà. Khi thì đem tặng mẹ một chai nước mắm ngon, lúc thì cái nón lá, có khi một chiếc khăn quàng cổ hoặc một chiếc áo len cô tự tay đan. Sau khi thăm mẹ về, đêm đó cô làm thơ ghi vào nhật ký chờ ngày anh về, vì cô biết chắc là anh bị tù oan:
“Em về thăm mẹ một chiều thu
Đường vắng em đi với nỗi sầu
Gót mòn xưa cũ thân quen quá!
Giờ lại u buồn thiếu vắng anh
Đời đã vui chi lá vẫn xanh
Nhìn con chim sẻ hót ở trên cành
Chim ơi! hãy hót nhiều lên nhé!
Để cõi lòng ta bớt cô liêu
Lam Phụng nơi đây với những chiều
Nắng vàng nhè nhẹ gió hiu hiu
Hàng tre trước ngõ ru trong gió
Như tiếng lòng em vẫn thở than
Nhà vắng chìm trong ánh nắng vàng
Có hình ảnh mẹ vẫn chờ mong
Lom khom mẹ nhặt từng cây củi
Mắt vẫn trông chừng những chuyến xe
Chiều nay em ghé về thăm mẹ
Vẫn mái nhà tole quá tiêu điều
Xóm nhỏ thân yêu giờ vẫn đợi
Một người rong ruổi dặm đường xa
Nhìn thấy không anh cảnh quê nhà
Vẫn con đường cũ những ngày qua
Mình em lẻ bóng chiều mây tím
Giữa khoảng trời nầy bao nhớ thương.”
Đông Lâm – Mùa Thu 1985.
Tuyết Nhung yêu thương anh vô cùng. Không quản đường xa xôi, heo hút với chiếc xe đạp mà cô vẫn đến các trại giam, từ Hội An sau nầy là Hòa Sơn để thăm nuôi anh. Mặc dầu giai đoạn đó Nhà chức trách chưa cho thăm và gửi quà vì hồ sơ cung chưa kết thúc. Chính sự chia ly cách biệt nầy đã cho cô mấy vần thơ đầy cảm xúc khi ấy:
“Em vẫn đến thăm nuôi không ngần ngại
Dù đường xa heo hút chỉ mình em
Anh ở đâu, em vẫn cứ đi tìm
Từ phố Hội đến Hòa Sơn xa tít.
Em vẫn sống vì anh không mỏi mệt
Không than phiền không trách phận đâu anh
Tiền bán buôn em cố gắng để dành
Nuôi anh sống trong những ngày tù tội.”
Cô cũng đã từng trải và kinh nghiệm những ngày anh bị tù tội. Cô được học lời Chúa qua các khóa Thánh kinh căn bản. Điều đó trang bị cho Tuyết Nhung sự vững vàng trên đường theo Chúa, nhất là bước đi trên đường Thập tự:
Thập tự giá đau thương mà Chúa đã chết đã trở thành nguồn sức mạnh lớn lao, từ hình cụ nhục nhã, dã man đã trở thành biểu tượng của sự vinh hiển và tình yêu tuyệt vời. Ngày nay chúng ta đều chứng kiến trên các cơ quan từ thiện, bệnh viện, nhà thờ, hội Chữ thập đỏ, trong nhà các Cơ đốc nhân, ngay trong cả nghĩa trang cũng có sự hiện diện của nó.
Vậy, Thập tự giá không được lạm dụng vào những bổng lộc riêng tư, không nên trang sức vào người bằng những loại trang sức đắt tiền quý giá, để mà phô trương giàu sang quý phái. Mà Thập tự giá chúng ta phải kinh nghiệm một cách riêng tư, để chúng ta chứng quyết sự chết, tình yêu và chiêm nghiệm tình thương của Ngài. Thập tự giá nơi đó Ngài bị treo lên, Ngài đã chết để chúng ta được hạ xuống, chúng ta được sống. Chúng ta nên cảm ơn Chúa vô cùng trong mọi hoàn cảnh…Tuyết Nhung quyết phải sống xứng đáng với tình yêu của Chúa.
Đức Chúa Trời rất là thành tín với Tuyết Nhung, với anh. Một buổi sáng anh được trở về. Ngày gặp lại anh, cô đã ngã qụy, nước mắt lưng tròng vì sự vui mừng khôn xiết. Anh đã đở cô dậy và đưa lệnh tha từ Viện Kiểm sát Nhân dân của Tỉnh cho cô xem. Vì anh vô tội, dù thời gian có dài nằm trong trại giam, nhưng đó là thời kỳ tạm giam để điều tra. Anh không có tội, nếu có tội thì anh đã có bản án và ra tòa xét xử công khai. Tiếng nguyện cầu và những giọt nước mắt của cô đã dâng lên cho Ngài sau ngày cưới lúc anh đi vào vòng lao lý:
“Đêm nay đây trong căn buồng cô vắng
Em lạc loài trong bóng tối mênh mông
Nhìn gối thêu hạnh phúc với màu hồng
Chiếc gối lạnh nằm đợi chờ ai đó?
Công lý ơi! biết bao giờ sáng tỏ!
Trả anh về hạnh phúc của riêng em.”
Tuyết Nhung nhìn thân hình anh tiều tụy mà ái ngại, mà xót thương. Anh ốm nhiều đi trông thấy, mắt thâm quầng, da tái bủng xanh xao. Nhưng nhìn sâu vào đôi mắt ấy, vẫn ánh lên niềm tin trong sáng và ánh ngời sự thủy chung cùng đức tin vững chắc vào Thiên Chúa.
Tuyết Nhung đủ tỉnh táo để nói với anh truyện tích Kinh thánh: Bác Si-môn quê ở Si-ren ngày xưa vác thế Thập tự giá cho Chúa khi Ngài bi kiệt sức. Nên sứ đồ Phao-lô có nhắc đến công trạng của ông ở thơ tín Rô-ma 16:13 “…Chào Ru-phu người được Chúa chọn, và chào mẹ người, cũng là mẹ tôi”.
Chúa ban phước cho người vác Thập tự giá và con cháu của họ. Thi thiên 103:17 và 115:14 Luật của Chúa ngày xưa là vậy. Kinh nghiệm ngày nay vẫn như thế.
Họ sống với nhau và có hai đứa con, một trai và một gái. Hai đứa ngoan hiền, học giỏi và biết hiếu kính yêu thương cha mẹ. Thằng lớn bây giờ là Thạc sĩ văn của Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng. Nó đang là giảng viên, trợ giảng cho một Giáo sư Tiến sĩ dạy cho một Trường Đại học và nó dành phần lớn thời gian hầu việc Chúa với một Hội thánh trong Thành phố Đà Nẵng bên cầu Sông Hàn. Chúa cho nó có ân tứ hát và đàn. Đặc biệt nó thường hát kêu gọi trong các chương trình Truyền giảng Tin Lành trong các Hội thánh ở Thành phố Đà Nẵng. Nguyện vọng của nó là muốn đi du học Thần học tại Philippines trong những năm tháng sắp đến. Nhưng hồ sơ của nó cần bổ sung những điều ắt phải hội đủ tiêu chuẩn cần thiết. Nó đang cầu nguyện và cố gắng để hoàn chỉnh cho một du học sinh để sẵn sàng ra đi…
Con nhỏ, làm Trợ lý Ban Điều hành Công ty Long Thịnh chuyên cung cấp sản phẩm cấp cao nhập từ Brazil và các Quốc gia châu Âu cho các nhà hàng, khách sạn ba sao trở lên tại Việt Nam, trụ sở tại Hà Nội. Văn phòng Đại diện và kho hàng tại Thành phố Đà Nẵng. Nó cũng dành thời gian để sinh hoạt, chứng đạo và chăm sóc Sinh viên cùng với nhóm Campus Crusade For Christ (C.C.C) lo công việc Chúa. Tuyết Nhung, Chúa cho cô làm nhân viên bảo mẫu một Trung tâm Bảo trợ Trẻ em đường phố Thành phố Đà Nẵng. Trung tâm nầy được tài trợ tài chính từ Cơ-đốc-nhân là người nước ngoài. Trung tâm tọa lạc gần nơi hai đứa con công tác, nên Tuyết Nhung có điều kiện chăm sóc miếng ăn giấc ngủ cho chúng nó. Cô còn dành thời gian sinh hoạt và góp phần hầu việc Chúa cùng một Hội thánh Tin Lành gần nơi cư ngụ
Việt Huân đã làm Thư ký cho một Hội thánh Tin Lành suốt mười ba năm, và bảy năm là Nhân sự của Hội thánh Truyền giảng Phúc âm. Cảm tạ Chúa! Anh đã đem về cho Chúa rất nhiều linh hồn tội nhân. Cả gia đình Tuyết Nhung luôn luôn biết ơn và lo hầu việc Chúa.
Dù cuộc sống bây giờ vẫn còn nhiều khó khăn nhưng gia đình họ cứ bước đi theo Chúa mỗi ngày. Vì họ biết rằng Chúa đang đồng hành với họ. Họ kinh nghiệm từ vua Đa-vít khi viết Thi Thiên đoạn 84 câu 7 theo bản dịch mới (BDM)“…Họ cứ tiến bước, sức lực càng gia tăng. Cho đến khi trình diện Đức Chúa Trời tại Si-ôn.”
Hồ Thi Thơ
Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Vào một buổi tối nọ, tôi cùng đứa em gái đi đến một tiệm bánh kem cũng khá nổi tiếng ở thành phố Biên Hòa để tìm mua một chiếc bánh kem vừa ý mừng ngày sinh nhật của người chị gái..
“Chị đứng đây canh xe, em chạy vào mua cho nhanh ” – Em gái tôi nói rồi vụt ngay vào tiệm bánh cùng với cái bóp tiền của tôi .
Vì là tiệm bánh nổi tiếng ngon trong thành phố nên khách đến khá đông,..Tôi kiên nhẫn đứng ngoài đợi …tôi bắt đầu quan sát chung quanh..
Kế bên tiệm bánh là tiệm gà quay, số người ghé vào ăn cũng như mua đêm về khá tấp nập…phía bên kia đường là quán hột vịt lộn, số người ngồi ăn đông đến nỗi phải kê thêm ghế ra ngoài vỉa hè.
Cũng thật thú vị khi quan sát những con người đang náo nhiệt hoạt động ăn chơi, đang chạy xe trên đường phố cười nói, vui đùa.
“Chị ơi, cho em xin ít tiền..chị ơi..” đang mãi mê nhìn chung quanh, rồi như chìm vào những suy nghĩ xa xăm, tôi giật mình quay về với thế giới hiện tai trước mắt. Một gã ăn xin chỉ trạc tuổi thanh niên đang đứng trước mắt tôi, với con mắt đã bị hư, một đôi chân tàn tật, khuôn mặt có vẻ hơi khù khờ đang giơ tay ra trước mắt tôi.
“Chị không có tiền em ơi, em chị cầm đi hết rồi ” – Tôi trả lời cậu ta .
Chần chừ truớc mắt tôi thêm vài phút, cậu ta lẳng lặng quay đi…Nhìn theo những bước đi khập khiễng có hơi mệt mỏi ấy tôi chợt cảm thấy chạnh lòng và day dứt khó tả…tôi liền cầu nguyện ” Chúa ơi, xin ban phước cho người ăn xin đó, sẽ có nhiều người giúp cậu ta trong hôm nay…”
Trên đường về, tôi cứ suy nghĩ hoài đến anh chàng ăn xin này, tôi cũng không hiểu…từng đối diện với rất nhiều người ăn xin, nhưng chưa bao giờ tôi có cảm giác thương cảm như trường hợp này…rồi tôi chợt nghĩ sao mình không cầu nguyện để Chúa thương xót, cậu ta sẽ gặp được Chúa Jesus trong cuộc đời, rồi Chúa sẽ cho cậu ta bánh và nước hằng sống, cậu ta sẽ chẳng bao giờ thấy đói thấy khát nữa…
Cuộc sống mà chúng ta đang sống có quá nhiều những con người lừa đảo, dối gạt…và điều đó khiến cho mỗi chúng ta thường e dè, thận trọng khi chìa tay ra giúp đỡ ai đó, mà đa phần là chúng ta chọn hướng quay lưng đi, hay sống theo chủ nghĩa ” mackeno” cho chắc ăn .
Tôi nhớ đến câu Kinh thánh trong Cô-rinh-tô “Quyết chẳng có điều sợ hãi trong tình yêu thương ..tình yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin cậy mọi sự…”
Có lần tôi đã nghe bài chia sẻ của một người anh trong Hội Thánh Biên Hòa, anh cũng chia sẽ về chủ đề tình yêu thương thật , anh nói rằng “theo quan điểm của anh thì thà giúp lầm còn hơn bỏ sót ”
Có lẽ anh nói đúng,..nếu cứ phân vân, suy nghĩ, tính toán, e dè, cẩn trọng khi muốn giúp một ai đó..thì cuối cùng mình sẽ chẳng giúp được ai..và có thể lắm chúng ta mất đi cơ hội được giúp người khác . Chúa Giê–xu cũng đã từng nói ” biết đâu các ngươi đang tiếp Thiên sứ mà không biết ” .
Nhưng điều mà tôi tin chắc bất kỳ ai trong vòng anh em chúng ta đều có thể làm được để giúp đỡ những con người khốn khổ đó là hãy cầu nguyện cho họ, dù đó chỉ là lời cầu nguyện trong tích tắc, trong thoáng qua – dù chỉ là” flash prayer ” nhưng sẽ thật ý nghĩa cho họ và cho chính chúng ta
Amen .
Sara
Bài vở góp ý và cộng tác xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Theo từng nhịp bước, tiết xuân khơi dậy sức sống cho mọi loài để rồi vạn vật đứng hẳn lên phô bày toàn diện vẻ đẹp huy hoàng và sức sống sung mãn của mình. Nơi nơi đều đón xuân, hưởng xuân và ao ước mùa xuân cứ tồn tại mãi mãi. Vui xuân, hưởng xuân là đón nhận và thưởng thức những vẻ đẹp tươi mát trong lành của thiên nhiên mà Tạo-Hóa trao tặng.
Mùa xuân thiên nhiên chỉ đến một lần trong năm, nhưng trong ý nghĩa mùa Xuân là thời gian vui tươi hạnh phúc và tràn đầy sức sống mà mọi người được hưởng, thì ai cũng có những mùa Xuân, những ngày Xuân trong cuộc đời; mùa xuân ấy xuất hiện trong mọi thời gian và không gian tùy theo từng hoàn cảnh, từng tâm trạng khác nhau của lòng người. Có người than phiền cái oi ả nóng bức của mùa Hè, cái buồn bã lặng lẽ của mùa Thu, cái lạnh giá tàn tạ của mùa Đông. Nhưng nhiều người khác lại thỏa thích phơi mình trong ánh nắng chói chang của mùa Hè, hay vui mừng gặt hái những kết qủa trồng trọt. Biết bao nhiêu thơ văn đã ca tụng vẻ đẹp đủ màu của những lá mùa Thu nhẹ nhàng rơi trong gió mát. Mùa Đông tuy có lạnh, nhưng cái lạnh đó khiến mọi người thưởng thức được sự ấm áp của một gia đình xum họp bên lò sưởi. Làn tuyết phủ đều trên mọi vật làm nổi bật màu xanh biếc của rặng thông và tăng thêm vẻ rực rỡ của những ánh đèn muôn màu trong mùa Giáng Sinh…Không phải chỉ có mùa xuân là đẹp đẽ đáng ca ngợi, đáng thưởng thức. Xuân, Hạ, Thu, Đông là sự kết hợp trọn vẹn của thời tiết một năm trong trật tự kỳ diệu mà Thượng Đế thiết lập. Mỗi mùa đều có vẻ đẹp và lợi ích riêng, một sắc thái riêng, một thứ tự riêng. Mùa nào cũng đáng ca ngợi, đáng ưa chuộng, đáng thưởng thức. Mùa nào cũng bày tỏ quyền năng, tình yêu thương và sự vinh hiển của Đấng Tạo Hóa. Mùa nào cũng cần thiết co sự sinh tồn của nhân loại. Mỗi năm, mỗi mùa, mỗi ngày đều được điều khiển trong quyền năng, tình thương yêu và sự thành tín của Đức-Chúa-Trời. “Mỗi buổi sáng thì lại mới luôn, sự thành tín Ngài là lớn lắm” Ca Thương 3: 23. Hãy tận hưởng mọi cơ hội của thời gian trong sự biết ơn và ngợi khen Đấng Tạo Hóa.
Trong ý nghĩa mùa Xuân, chúng ta liên tưởng đến mùa Xuân mà Chúa Jesus Christ đã mang đến cho nhân loại. Ngài đến để những linh hồn khổ đau oằi oại dưới gánh nặng của tội lỗi. Ngài đến để đem sự sống mới dư dật cho những kẻ thuộc về Ngài. Ngài đến để đem bình an cho những kẻ khốn cùng, đem sự giải thoát cho những kẻ bị đoạ đày trong tội lỗi. Quyền năng của Ngài đã biến cải biết bao con người tội lỗi trở thành lương thiện, tội nhân trở thành thánh nhân và đưa kẻ đó đền điạ vị vinh hiển của tột cùng là được làm con cái Đức-Chúa-Trời: Nhưng hễ ai đã nhận Ngài, thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài Giăng 1: 12. Chính Chúa Jesus là mùa Xuân, là Chúa Xuân của vạn vật, và nhận loại. Sự hiện diện của Chúa Jesus như mùa Xuân bừng dậy trong lòng những kẻ tin nhận Ngài. Nỗi thống khổ nặng nề trong tội lỗi được vứt bỏ, bình an và hy vọng hiện ra trong vinh quang của của tình yêu Thiên Chúa. “Vậy, nếu ai ở trong Đấng Christ, thì nấy là người dựng nên mới; những sự cũ đã qua đi, nầy mọi sự đều trở nên mới. II Côrinhtô 5: 17. Đức tin là hy vọng trong sự cứu rỗi là nhịp cầu vững chắc cho bước chân Cơ-Đốc-Nhân vượt qua bao sóng gió, chông gai của cuộc đời để vui vẻ bước đi trên con đường hẹp của Chúa và tiến bước đến mục tiêu vinh hiển, hạnh phúc, vui thỏa đời đời trong nước Đức Chúa Trời là vương quốc của Chúa Xuân.
Tuy mùa Xuân đã tưng bừng hiện diện trong mọi nơi, nhưng cũng vẫn còn những chốn âm u, buồn tẻ và lạnh lẽo vì không đón tiếp Chúa Xuân. Thế gian vẫn đang tăm tối, tội lỗi vì còn những tấm lòng đóng kín với sự cứu rỗi của Đức-Chúa-Trời trong danh Cứu Chúa Jesus. Chúa Cứu Thế sẳn sàng bước vào những tấm lòng mở rộng để đem lại sự vui thỏa và phước hạnh đời đời cho những kẻ tin nhận Ngài. Hãy tận hưởng mùa Xuân của thiên nhiên, cùng những cơ hội vui thỏa hạnh phúc mà Thượng Đế ban cho cuộc sống. Cũng hãy tiếp nhận Cứu Chúa Jesus vào lòng để ý nghĩa của mùa Xuân được thể hiện trọn vẹn trong mỗi cuộc đời về phần thể xác lẫn tâm linh, trong hiện tại cũng như trong tương lai, trong cuộc sống dưới đất và trong vinh hiển đời đời nơi thiên đàng vĩnh cửu.
Khúc Văn Dầu
Nguồn Mytnpa.org
Xuân đến rồi xuân sẽ qua đi
Để lại trong ta nuối tiếc gì?
Cúc tàn mai úa sen buồn nở
Cảnh cũng theo người vật ngả nghiêng
Xuân đến rồi xuân sẽ qua đi
Bạn…Tôi…nghĩ lại mấy xuân thì!
Tóc xanh nay đã đầu điểm bạc
Da mỡn mà nay trổ đồi mồi
Xuân đến rồi xuân sẽ qua đi
Xiêm y mới đó đã cũ bì
Giày mòn gót lõm khi quá vãng
Mắt mờ chân mỏi trí đãng ư?
Xuân đến rồi xuân sẽ qua đi
Xoay vần vũ trụ…Bạn hỏi gì?
Đời xuân chấm dứt hồn đâu nhỉ?
Tử lý quay về biết nói chi?
Xuân đến rồi xuân sẽ qua đi
Vậy thì xuân đến để làm chi?
Ta thêm một tuổi nghĩa lý gì?
Gần đất xa Trời tuyệt vọng hi.
Xuân đến rồi xuân sẽ qua đi
Lòng ai có Chúa…xuân mãi thì
Ngập tràn ơn phước xuân ngự trị
Mùa xuân ở lại dẫu xuân đi
Xuân đến rồi xuân sẽ qua đi
Cảm tạ Chúa xuân chẳng quản gì
Ra đi truyền bá rao ân sủng
Chúa đến vì yêu chúng sanh về
Xuân đến rồi xuân sẽ qua đi
Cho tôi ôm trọn mối tình si
Yêu Chúa – Yêu người – Yêu muôn sự
Mùa xuân ở lại…Mãi khắc ghi!
Hồ Thi Thơ
Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
I. NGUỒN GỐC THỜ CÚNG TỔ TIÊN
1. Mối quan hệ với người còn sống:
Thờ cúng tổ tiên không phải là tôn giáo. Nó xuất phát từ lòng thành kính và biết ơn của con cháu đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Thành ngữ: Cây có cội, nước có nguồn; chim có tổ và người có tông. Ý nói: Làm người phải biết nhớ tưởng đến nguồn gốc của mình, tức là nhớ đến cha mẹ và ông bà tổ tiên. Lòng thành thương tưởng ông bà, Nước nguồn cây cội mới là tu mi hoặc “Công cha như núi Thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ, kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Khi còn sống, con người trong cộng đồng có mối quan hệ với nhau. Quan hệ gia đình có thứ tự, có giai cấp, anh em, cha mẹ, ông bà, và tổ tông…, “anh em như thể tay chân”, “gà cùng một mẹ”. Quan hệ cộng đồng, có bà con xóm giềng, “tối lữa tắt đèn có nhau”. Trong lúc bệnh hoạn, gặp khó khăn vì khó nghèo giúp nhau trong mọi hoàn cảnh cuộc sống. Vài địa phương từ Bình định ra xứ bắc xem tổ tiên của gia đình dòng tộc có tổ tiên chung của cả làng, tổ tiên của làng chính là tổ tiên của dòng họ, được gọi là tiền hiền, hậu hiền[1]. Quan hệ với xã hội, người Việt nam biết tôn kính những anh hùng dân tộc, những người có công với đất nước…nên những mối quan hệ này trở thành mật thiết, có giai cấp và có giá trị trong đời sống hiện tại. Đất nước ta vào giữa cuối thế kỷ 16, khi Tạ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh theo lệnh Chúa Nguyễn mở cõi vào phương Nam miền Tây sông nước. Mỗi gia đình miền Trung có thể theo ngài vào Nam, ai có sức phát hoang khai khẩn, được bao nhiêu thì làm chủ bấy nhiêu. Nhiều gia đình chia tay, người cha hoặc người mẹ cùng con cả theo Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam mở đất, không họ hàng, không thân nhân, họ phải kết thân với nhau theo tuổi tác, giúp nhau trong canh tác, làm sui gia, dần dà tạo nên làng xóm. Trong bối cảnh xa quê hương mở đất phương xa, gặp nạn “dưới sông sấu lội, trên bờ cọp đua” hoặc bệnh tật có người qua đời, người còn lại trở nên cô đơn tưởng nhớ người đã khuất.
2. Mối quan hệ với người đã khuất:
Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mà thông qua nghi lễ thờ cúng nhằm xác lập “mối liên hệ” giữa người sống với người chết, giữa người thế giới hiện tại và thế giới tâm linh. Là sự thể hiện quan niệm về nhân sinh của người Việt Nam: “Sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn”. Nếu như tôn giáo thường tuyệt đối hóa đời sống tinh thần, hướng con người về thế giới siêu thoát, thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tuy có hướng con người về với quá khứ, song lại rất coi trọng hiện tại và tương lai[2]. Tín ngưỡng tổ tiên còn là sợi dây liên kết giữa những con người trong cuộc sống hiện tại. Tình nhân ái trong cộng đồng được xây dựng, củng cố cả ở quá khứ, hiện tại và tương lai, giữa người quá cố và người đang sống. Người Việt nghĩ rằng người chết vẫn còn quanh quẩn đâu đó trên trần thế này mặc dù mắt thường không nhìn thấy. Người quá cố có thể nhận biết được tư tưởng của người đang sống cần gì. Ngược lại, thì người còn sống cũng muốn làm cho người đã khuất có được nhu cầu như còn sống. Dân gian có câu “Dương gian – Âm phủ đồng nhất lý” nói lên sự nhận thức của người đang sống cho rằng cõi âm cũng giống như cõi dương trần, dù ta không thấy được bằng mắt nhưng người đã khuất cũng có những nhu cầu giống như người còn sống, lại có quyền lực vô song. Một số địa phương còn coi tổ tiên của gia đình chính là các thần linh thiêng luôn ở cạnh có thể ban phước, phù hộ, độ trì cho người thân, con cháu[3], nói theo cách khác, tín ngưỡng của tục thờ cúng tổ tiên là quan niệm về sự tồn tại của linh hồn và mối liên hệ giữa người đã chết và người sống (cùng chung huyết thống) bằng con đường hồn về chứng kiến, theo dõi hành vi của con cháu, quở trách hoặc phù hộ cuộc sống của họ[4].
3. Hình thức thờ cúng:
Vì do sự nhận thức trên, người Việt nam đã có truyền thống quan tâm đến chuyện lo liệu cho người thân qua đời và sau khi qua đời. Người ta lập bàn thờ để cúng, vái. Ngày cúng kỵ là ngày người quá cố qua đời. Gia đình con cháu từ các nơi tụ về và dự phần tài chánh hoặc vật cúng trong ngày giỗ. Người trong gia đình đi qua bàn thờ phải cúi đầu bước nhẹ kính cẩn giống như ông bà, cha mẹ đang hiện diện nơi đó. Hành lễ cúng gồm các phần: nghi vật, nghi trượng và nghi thức. Nghi vật là những thứ vật dành cúng để người quá cố về “hưởng”. Nghi trượng là những thứ bày trí trên bàn thờ, như lư hương, chân đèn, bài vị…Nghi thức là cách bày tỏ của con cháu còn sống, tuỳ thuộc vào mỗi địa phương. Thông thường là sự bày biện hương, đăng, trà, quả, các món ăn, món uống…rồi người đứng đầu gia đình thắp hương van vái với người quá cố ban phước cho con cháu trong gia đình may mắn, bình an…sau đó là từng người theo thứ tự từ trên xuống dưới. Nói chung, tất cả lòng thành đều được thể hiện ngay thì giờ cúng kiếng thiêng liêng đó.
Nhiều người giàu có còn xây dựng nhà từ đường thờ tự cả tổ tiên nhiều đời mà con cháu cũng chẳng biết dùng từ ngữ để gọi, chỉ gọi chung là nhà từ đường, trong đó dành thờ phượng tổ tiên qua đời là xong. Đối với những gia đình khá giả như vậy.
Hàng năm con cháu đổ xô về không chổ chứa. Trong quyển Phong Tục Việt Nam, học giả Phan Kế Bính viết: Mỗi tuần tiết, hoặc ngày kỵ, hoặc mùa có của mới, gạo mới, hoặc khi có việc hiếu hỷ, việc to, việc nhỏ, nhà kiệm nhà phong, hoặc dùng bò lợn dê gà hoặc làm một vài mâm cỗ, hoặc dùng đồ hoa quả bánh trái, hoặc thủ lợn mâm xôi…tuỳ thế nào cho tiện thì thôi. Nhưng thế nào cũng phải có cơi trầu, bát nước trong, một hồ rượu mới là thành lễ. Đốt đèn, đốt hương tuỳ việc mà khấn vái gia tiên. Đồ cúng cấp chưa cúng thì dẫu lưng cơm thừa, bát canh dở cũng không ai dám ăn trước, ấy cũng là một lòng rất thành kính vậy[5]. Hằng năm khi đến ngày người chết qua đời, con cháu dù bận rộn cũng phải nhớ đến làm giỗ, chứ không phải cúng giỗ. Vì chỉ những người theo tôn giáo có chấp nhận sự thờ cúng tổ tiên mới cúng, những người theo tôn giáo không chấp nhận sự thờ cúng thì chỉ làm kỷ niệm ngày người thân đã chết, chỉ làm giỗ mà không cúng[6].III.
II. HỘI NHẬP VĂN HOÁ ĐỊA PHƯƠNG
1. Tiếp cận tập tục văn hoá địa phương:
Việc thờ cúng tổ tiên, ông bà có thể nói đây là phong tục mang ý nghĩa “tỏ lòng biết ơn” của người Á Đông nói chung và riêng của người Việt nam. Họ quan tâm trong cuộc sống hiện tại lẫn bày tỏ lòng tưởng nhớ ngay sau khi người thân qua đời. Bất cứ hình thức nào ngoài tín ngưỡng thờ cúng này dường như khó có thể thay thế hoàn toàn. Cadiere – nhà văn hoá, Linh mục người Pháp đã dày công nghiên cứu Tín ngưỡng và Tôn giáo của người Việt, ông phát hiện ra một vấn nạn về phạm trù đạo mà người Việt sử dụng, như đạo làm người, đạo làm con, đạo làm cha mẹ, đạo làm vợ chồng, đạo hiếu, đạo vua tôi, đạo trung thần…cái gì cũng dùng chữ đạo để nhấn mạnh, nó biến hoá vô cùng và rất phức tạp, chằng chịt các mối tương quan, khó lòng phân loại rạch ròi các phạm trù, hình thái kết hợp…Đạo tiếp cận với cái TÂM chứ không phải qua con đường LÝ TRÍ[7]. Chính cái khó nhận ra nên cũng khó áp dụng trong việc truyền giáo nếu như chưa tiếp cận với tín ngưỡng này. Xét kỷ vấn đề này, có thể nhận thấy việc tín ngưỡng thờ cúng ông bà, tổ tiên cũng rất phù hợp với giáo lý Cơ đốc qua nhiều điểm tích cực.
2. Phân tích tập tục văn hoá địa phương:
Người Việt biểu hiện lòng hiếu thảo đối với người thân mình trong lúc còn sống và khi đã qua đời. Họ nghĩ linh hồn vẫn còn tồn tại và luôn nhận biết người đang sống. Biết linh hồn còn tồn tại sau khi chết nhưng không biết đang ở đâu. Thờ ông bà tổ tiên mà không biết thờ ai? nhưng vẫn có lòng thành cung kính. Tưởng nhớ ông bà, tổ tiên cũng chính là khía cạnh tâm linh mà chỉ có con người thật mới có được điểm này.Khi người ta dùng từ ngữ “đạo hiếu” cũng có nghĩa là nói lên bổn phận của mình đối với đối tượng tôn thờ. Ngày giỗ còn gọi là ngày kỷ niệm ngày qua đời, là ngày mà con cháu gặp nhau để kính nhớ tổ tiên và bày tỏ thái độ lòng thành của mình. Điểm chung, là người Việt thích thờ phượng, thích đi sâu vào yếu tố tâm linh và khao khát được ban phước[8].
III. TRUYỀN GIÁO
1. Thay đổi nhận thức:
Cơ đốc giáo cần phải có cái nhìn tích cực đối với tín ngưỡng này, cũng chớ nên quá khắc khe, tìm cách loại bỏ tất cả những gì đã tồn tại trong suốt mấy nghìn năm văn hiến. Nhiều người tin Chúa tiên phong trong vài chục thập niên trước đã tìm cách loại bỏ truyền thống để áp dụng triệt để theo cách thức của phương Tây, lấy điều răn 1, 2 làm tiêu chuẩn thờ phượng cho tất cả. Trong ngôn ngữ Do thái, chữ thờ cha kính mẹ có nghĩa là tôn vinh cha mẹ, vì cha mẹ là hình ảnh của Thiên Chúa. Mỗi dân tộc có hình thức bày tỏ lòng tôn kính này, người phương Tây ôm hôn, người Châu Á chấp tay vái lạy làm cho nhiều người bị dị ứng xem thái độ này như sự tôn thờ nên tìm cách bài xích. Những gia đình theo Tin lành còn giữ truyền thống bị lên án là làm sai lời Kinh thánh. Bị coi là thờ ma lạy quỉ. Những người tin Chúa đơn độc, khi đối diện với ngày lễ giỗ của gia đình cũng không dám dự phần tài chính vì sợ tham gia cúng tế hình tượng. Có một gia đình tôi được biết là gia đình Tin lành tổ chức lễ kỷ niệm ngày qua đời của cha mẹ để nhắc nhở về công lao hầu việc Chúa của cha mẹ cho anh em trong nhà noi theo, cầu nguyện để Chúa ban cho thêm năng lực theo và hầu việc Chúa. Việc làm này tồn tại qua nhiều năm, có vài bạn hữu được mời đến và nghe chia sẽ Phúc âm rồi tin Chúa. Một ngày nọ có vị mục sư mới chuyển về được gia đình mời đến. Sau đó cả nhà phải lắng tai nghe lời phê bình của vị Mục sư này một cách gay gắt, như: người chết đã về nước Chúa không cần phải kỷ niệm, hoặc TLH không khuyến khích làm việc này…thế là vài thân hữu đến dự lấy làm lạ quá vì Tin lành cấm thờ kính người quá cố.
Chúng ta cần phải phân biệt giữa sự tôn kính và tôn thờ. Sự tôn kính luôn là nền tảng đạo đức giúp cho người ta biết kính người trên, nhường nhịn người dưới không có nghĩa là thờ phượng. Thờ phượng Thiên Chúa là nhận biết xuất xứ loài người, sự yếu đuối bản thân do tội lỗi và ân sủng của sư cứu chuộc và biết chắc là hưởng được sự sống đời đời. Thiên Chúa không bao giờ chấp nhận sự bất hiếu của con người và Ngài luôn bày tỏ chính Ngài như hình ảnh người Cha (Hô-sê 11:1-4; Ê-sai 1:2; Giê-rê-mi 3:19) và bày tỏ Ngài như người Mẹ (Ê-sai 49:15; Hô-sê 11:8; Giê-rê-mi 31:20) . Sớm hơn nữa là điều răn ràng buộc con người vào mối quan hệ cha mẹ là phải HIẾU-KÍNH (Xuất 20:12). Khổng Tử có lời dạy, nếu chỉ Hiếu (yêu thương) mà không kính thì chẳng khác vì thương yêu loài vật. Đối với Cha-mẹ-Ông-Bà, ngoài việc HIẾU, ta còn phải KÍNH nữa.
2. Áp dụng các phương thức truyền giáo:
Trước hết, chúng ta nhận thấy Kinh thánh rất chú trọng đến việc hiếu kính. Trong Phúc âm Ma-thi-ơ Chúa Giê-xu đã nghiêm túc phê bình mấy người Pha-ri-si (Mat 15:3-9). Vì thế, người tham gia truyền giáo không nên tìm cách phá đổ mà nên thay thế hình thức truyền thống theo mô hình Cơ đốc giáo. Phao-lô là một trong những con người có kinh nghiệm truyền giáo trong nhiều bối cảnh văn hoá khác nhau. Trong thư tín cho người Cô-rinh-tô ông chia sẽ, Đối với người Do Thái, tôi trở nên giống như người Do Thái để chinh phục người Do Thái. Đối với người sống theo Kinh Luật, tôi sống như người theo Kinh Luật, dù tôi không bị Kinh Luật ràng buộc, để chinh phục những người theo Kinh Luật. 21Đối với những người không có Kinh Luật, tôi sống như người không Kinh Luật, không phải tôi không có Kinh Luật của Đức Chúa Trời, vì tôi có Kinh Luật của Chúa Cứu Thế, để chinh phục người không Kinh Luật.22 Đối với người yếu kém tôi trở nên như người yếu kém để chinh phục họ. Tôi trở nên mọi sự cho mọi người để bằng mọi cách cứu rỗi một vài người. I Côr9:20-22[9]. Cần phải xoá bỏ những thành kiến tôn giáo hoặc hình thức tín ngưỡng, như cúi đầu, chấp tay hoặc tổ chức kỷ niệm ngày qua đời của người thân, nhắc nhở công lao của họ khi còn sống để con cháu noi theo rồi thông công với nhau vui vẻ.
– Đối với gia đình mới tin Chúa, chớ nên quá khắc khe, nói rằng từ nay có Chúa rồi, đừng thờ ma lạy quỉ nữa…tôi đã đi cùng nhiều anh chị em truyền giáo từ nam ra bắc, khi nhiều người tin Chúa, trước lúc chuẩn bị cầu nguyện có một chị em tuyên bố như vậy đã làm cho họ thay đổi ý định tin Chúa. Kinh nghiệm của cá nhân, tôi thường hay khuyến khích họ tôn trọng người qua đời, giúp họ treo ảnh kỷ niệm trên tường cách trang nghiêm chứ không bảo đốt bỏ. Điều trái ngược, khi chúng ta nói linh hồn người chết ở một chỗ qui định cho người tin hay không tin, thì việc cúng tế cớ gì linh hồn người chết về ăn được, có chăng là tìm cơ hội để giải thích việc làm như vậy là vô ích, người chết không hưởng gì qua việc cúng, như vậy chẳng khác nào tự gạt mình. Nhiều người giải thích là không nên cúng người chết, theo cách nói này như là đồng thuận rằng linh hồn người chết có thể về ăn thật?.
– Hướng dẫn người nghe thực hành hiếu kính cha mẹ khi còn sống, khi chết phải chôn cất tử tế là trọn bổn phận làm con cháu. Mình nên chỉ dẫn cách nào đúng với Kinh thánh và lương tâm người mới tin cũng không bị cắn rứt và để người ta hiểu nhiều hơn về lời dạy của Chúa đối với người thân hơn là cố gắng đả phá. Trước đây có vài anh em còn yêu cầu dẹp bỏ bàn thờ vừa ngay khi mới tin Chúa. Ba mươi bốn năm trước đây, tôi là người cố gắng giải thích điều này với gia đình và dòng họ vì họ bảo tôi là người đi theo cái đạo bỏ ông bỏ bà.
– Giáo hội cần có văn bản chung, cụ thể cho từng trường hợp liên quan đến yếu tố văn hoá nhạy cảm như vậy, để khi áp dụng vào thực tế không bị kết án lẫn nhau.
IV. KẾT LUẬN
Trong khuôn khổ bài viết ngắn khó lòng trình bày hết tất cả những điều quan trọng liên quan đến vấn đề này. Người xây dựng nền tảng thần học cần phải nghiên cứu kỷ lưỡng những yếu tố nào không ảnh hưởng đến tín lý thì cứ áp dụng vào việc bảo tồn theo nền văn hoá truyền thống, không nên kỳ thị, thiếu suy xét khiến cho việc truyền giáo mất đi hiệu quả.Những gì Kinh thánh không lên án, chúng ta cũng đừng cố gắng để lên án. Nhìn lại kết quả trong suốt 100 năm qua, người ta đã làm mất đi kết quả truyền giáo hiệu quả vì cứ mãi lo việc xây “hàng rào”Việc áp dụng truyền giáo cho người thờ cúng tổ tiên cần phải được điều chỉnh lại, nhận định đúng bản chất của nó là gì? Cần được đưa ra thảo luận rộng rãi giữa các chức sắc tôn giáo, đưa ra quyết định bằng văn bản, và phổ biến trong các buổi học Kinh thánh, giúp cho tất cả mọi người hiểu rõ việc đúng, việc sai vì đây còn liên quan đến niềm tin nên không được tuỳ tiện áp dụng cho suy nghĩ cá nhân. Nếu vấn đề vướng mắc này được tháo gở, hi vọng người Việt nam cho dù có ảnh hưởng về vấn đề thờ cúng đến đâu cũng có thể vui lòng tiếp nhận Chúa, và chúng ta sẽ có cơ hội mang lại kết quả nhiều hơn, dâng sự vinh hiển lên cho Đức Chúa Trời.
Thư Mục:
– Viện Thánh Kinh Thần Học UCC. Tài liệu Giáo khoa BBL 506 Xuân 2009
– Giáo sư Võ thu Tịnh: Vấn đề thờ cúng tổ tiên.- Trần Quốc Vượng: Văn hoá Việt Nam
– Tìm tòi và suy ngẫm. Nxb VHTT , 2003
– Viện Nghiên cứu Tôn giáo : Kết qủa điều tra xã hội học tôn giáo năm 1995- 2007.
– Lm.Nguyễn Thế Thoại: Tôn giáo học và các tôn giáo lớn ở Việt nam- Đỗ Trinh Huệ: Văn hoá, Tôn giáo, Tín ngưỡng Việt nam. NXB Thuận hoá2006.
– Phan Kế Bính, Việt Nam Phong Tục. NXB Văn Học, 2008.Các Website:
– http://truongtoc.vn
– http://linhnghiem.vn
– http://batdongsan.com.vn
– http://btgcp.gov.vn
Phụ lục:
[1] , http://truongtoc.vn/info/Ban-sac-van-hoa-Viet/Tin-nguong-tho-To-tien-Ong-ba-o-Quang-Nam-Da-Nang-147/
[2] http://linhnghiem.vn/tin-ng%C6%B0%E1%BB%A1ng-th%E1%BB%9D-cung-t%E1%BB%95-tien/
[3] http://noithocung.batdongsan.com.vn/ban-to-tien-nguoi-viet-trong-ngay-tet-d-v4R90wQEg1.html
[4]http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/240/0/1426/Tin_nguong_tho_cung_to_tien_ban_sac_van_hoa_cua_nguoi_Viet
[5] Phan Kế Bính, Việt Nam Phong Tục. NXB Văn Học, 2008, trg.22
[6] LM.JMT. Nguyễn Thế Thoại, Tôn giáo học và các tôn giáo lớn ở Việt Nam.
[7] , Đỗ Trinh Huệ, Văn hoá, Tôn giáo, Tín ngưỡng Việt nam. NXB Thuận hoá 2006, trang 80-81
[8] , http://www.ofmvn.org/tinh-dong/huan-luyen/1049-Th%E1%BB%9D-c%C3%BAng-%C3%B4ng-b%C3%A0-c%C3%B3-h%E1%BB%A3p-v%E1%BB%9Bi-l%E1%BB%9Di-Ch%C3%BAa-d%E1%BA%A1y-trong-Kinh-th%C3%A1nh-kh%C3%B4ng
[9] , Kinh thánh Bản dịch mới 2002
T.Nguyễn
Theo Bietdesong.blogspot
Bài vở cộng tác và góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Tôi còn nhớ ngày tôi đau ruột thừa nhập viện, y tá hỏi: “Anh chị muốn nằm phòng dịch vụ hay phòng thường?” Ba bảo: “Nằm dịch vụ đi cho con nó khỏe.” Ngày ba bệnh y tá cũng hỏi như thế, tôi nói: “Dịch vụ.” Ba bảo: “Thôi, ba có nằm bao nhiêu đâu dịch vụ làm gì, nằm phòng thường đi cho đỡ tốn kém.” Nhìn ba mắt tôi cay cay. Ba của tôi là người như thế đó! Ba không phải là thạc sĩ, kĩ sư, không là doanh nhân vĩ đại, ba của tôi chỉ là bác thợ hồ, là công nhân, là chú bảo vệ nghèo đã lam lũ cả cuộc đời mình vì vợ và vì các con… Nhưng tôi yêu ba, yêu ba thật nhiều. Trong tôi ba vĩ đại hơn bất kì ai hết!
Cha của Sonora Smart Dodd, người khởi xướng Ngày Lễ Cha, dù sống ở trong khoảng không gian và thời gian khác như người cha trên, nhưng tình thương yêu hi sinh cho con không khác. Vốn là một cựu chiến binh trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, từ giã chiến trường trở về ông buông súng nắm tay cày làm lụng vất vả để nuôi sống gia đình. Chẳng may vợ mất sớm, trong cảnh đơn chiếc ông gắng công làm việc trong một trang trại nhỏ thuộc miền đông tiểu bang Washington. Để nuôi sáu đứa con – năm trai một gái – thành người. Nên ký ức về người cha trong lòng bà thật khó phai.
Vì vậy, vào Chúa Nhật tuần lễ thứ hai của tháng 5 năm 1910, chỉ hai năm sau Ngày Lễ Mẹ đầu tiên được tổ chức tại West Virginia. Ngồi trong băng ghế nhà thờ ở Spokane, Washington dự Ngày Lễ Mẹ, nghe nhắc đến công ơn người mẹ, Sonora chợt nhớ đến phụ thân mình. Nhớ lại tình thương của cha, Sonora chợt liên tưởng đến bao nhiêu người cha khác khắp nơi đã hy sinh cuộc đời cho con cái nên quyết định kêu gọi thành lập một ngày để tưởng nhớ công ơn người cha. Đề nghị của bà nhanh chóng được hưởng ứng, đa số dân chúng đồng lòng ủng hộ. Dẫu vậy, mãi đến năm 1972 Quốc Hội Hoa Kỳ mới chịu thông qua đạo luật và Tổng thống Richard Nixon ký duyệt công bố Ngày Lễ Cha trở thành một quốc lễ, hằng năm tổ chức vào Chúa Nhật thứ ba trong tháng 6. Mỗi năm tại Hoa Kỳ, hơn 85 triệu cánh thiệp đã được bán ra trong ngày tri ân người cha. Cảm ơn Chúa, đã có người còn nghĩ đến bậc sinh thành của mình.
Vì: “Đồi mô cao bằng đồi danh vọng,
Nghĩa mô trọng bằng nghĩa mẹ cha.”
Nếu như mẹ có Ngày Lễ Mẹ, ngày Quốc Tế Phụ Nữ, ở Việt Nam còn có ngày Phụ Nữ Việt Nam, thì cha lại rất cần có ngày lễ của riêng mình. Ngày Lễ Cha để nhắc nhở mọi người luôn nhớ đến, tôn vinh người giữ vai trò quan trọng nhất trong gia đình.
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.
Núi cao biển rộng mênh mông,
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”
Là người con thì dù sống trong xã hội nào, phải nhớ ghi lòng công ơn và có bổn phận hiếu kính cha mẹ. Lời Chúa dạy trong Xuất Ê-díp-tô Ký 20:22 rằng: “Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi, hầu cho ngươi được sống lâu trên đất mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho.” Là người con dù đang sống tại Hoa Kỳ hay một nơi nào trên thế giới, chúng ta nên dành một ngày để tưởng nhớ đến tình thương yêu và công ơn của cha mình.
Bởi lẽ: “Con người có bố, có ông,
Như cây có cội, như sông có nguồn.”
Có một câu chuyện cảm động kể là: Năm 1988 tại Mỹ có một trận động đất lớn, san bằng toàn bộ khu vực và làm cho rất nhiều người chết chỉ trong vòng bốn phút. Giữa khung cảnh hoảng loạn đó, một người cha vội chạy đến trường mà con ông ta theo học để chỉ thấy toà nhà trước kia là trường học nay chỉ còn là đống gạch vụn. Sau cơn sốc, ông nhớ lại lời hứa với con mình: “Cho dù chuyện gì mắt ông lại trào ra.
Nhìn vào đống đổ nát không còn hi vọng, dẫu vậy trong đầu ông lại không thể xoá đi lời hứa với con và ông đã hành động theo những gì mà trái tim mình mách bảo. Ông cố nhớ lại cửa hành lang, nhớ phòng học con trai mà ông đưa đi học mỗi ngày, rồi vội chạy đến đó và bắt đầu đào bới. Những người cha, người mẹ khác cũng chạy đến, và từ khắp nơi vang lên những tiếng khóc lóc kêu than. Nhiều người với lòng tốt cố kéo ông ra, ngay cả người chỉ huy cứu hỏa và những viên cảnh sát cũng cố thuyết phục đưa ông ra khỏi đống đổ nát. Họ nói: “Đã quá muộn không còn giúp được gì cho chúng nữa đâu, bọn trẻ chết hết rồi, nên tốt nhất là ông hãy về nhà đi! Với mỗi người, ông chỉ đặt một câu hỏi: “Anh có giúp tôi không?” Nhưng để chỉ nhận được sự từ chối! Ông hiểu rằng mình phải tự thực hiện lời hứa với con, dù con còn sống hay đã mất! Và sau đó, một mình với từng miếng gạch, ông lại đào bới tìm đứa con mình. Ông đào tiếp tục… 12 giờ… 24 giờ… mảng tường cuối cùng được lật ra thì cũng là lúc dây thần kinh ông căng ra đến tột độ, ông đang chờ đợi điều xấu nhất. Nhưng may thay, trong số 14 học sinh còn sống lại có tên con trai mình.
Ấy là tình cha! Đức Chúa Trời tạo dựng nên con người, có nam có nữ và qua đó mà có chúng ta. Vậy nên con người có cha và có mẹ, trong việc dạy dỗ nuôi nấng con cái cũng vậy, công cha nghĩa mẹ đông đầy như nhau. Nên là con chúng ta phải hiếu kính cả hai, vai trò của người cha cũng quan trọng như chức năng của mẹ trong sự nuôi dạy con cái. Tục ngữ Việt Nam có câu:
“Mẹ dạy thì con khéo,
Cha dạy thì con khôn.”
Người nào sinh trưởng trong gia đình có được người cha nhân từ và người mẹ hiền đức thì không có phước nào sánh bằng. Trong khi mẹ nuôi dưỡng con trong tình yêu, người cha dạy con trong kỉ luật. Cần sự quân bình giữa tình yêu và kỉ luật để đứa trẻ có thể phát triển thành một con người cân bằng về tâm trí.Khi con ra đời, con là niềm vui của mẹ. Tình thương của mẹ dịu dàng, đầm ấm. Khi con chập chững biết đi mẹ nhìn không nói, nhưng từ trong sâu thẳm ánh mắt mẹ hiền long lanh dòng lệ vui mừng. Đối với con tình thương của cha luôn giấu kín, và đôi khi tiềm ẩn trong lời nói nghiêm nghị. Mẹ là tình cảm, cha là lý trí. Mẹ mềm lòng, cha phải giữ kỷ cương. Mẹ “chín bỏ làm mười,” cha phải “cầm cân nảy mực.” Tình thương của cha luôn được thể hiện qua sự giáo dục nghiêm khắc, có được sự giáo dục của cha người con mới có đủ điều kiện để trau dồi cho mình một nhân cách vững vàng, hầu có thể đối diện và vượt qua bao sóng gió của cuộc đời.
Sứ đồ Phao-lô trong Ê-phê-sô 6:1 bảo: “Hỡi kẻ làm con cái, hãy vâng phục cha mẹ mình…, vì điều đó là phải lắm.” Hãy tôn kính cả cha lẫn mẹ, vì không biết được bao giờ cha mẹ khuất. Trong Ngày Lễ Cha, tôi cầu mong quý vị có thể sống trong “phụ tử tình thâm” với người cha thương yêu của mình. Riêng tôi, hình ảnh người cha sẽ mãi mãi là ngọn lửa thiêng liêng, sưởi ấm tâm hồn tôi mãi tận sau này.
Mục sư Ức Chiến Thắng
Bài vở cộng tác và góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
Một phần để góp phần làm phong phú thêm trang này, một phần cũng là thêm một tiếng nói biết ơn Chúa đến cho mọi người trong cộng đồng Cơ Đốc Việt Nam. Vậy mà công việc cứ chi phối và trì hoãn mãi. Hôm nay một lần nữa lại vào trang web này và nhất định phải viết những dòng đầu tiên, hy vọng sẽ hoàn thành lời hứa …
Để nói về tình yêu của Chúa, thật là có qúa nhiều điều để nói, nhưng có lẽ những ký ức về những ngày đầu tiên nếm trải tình yêu của Chúa là điều khó quên nhất. Khi xem những hình ảnh về những buổi truyền giảng có hàng ngàn người kéo lên khán đài để xin tiếp nhận Chúa, lòng tôi rưng rưng cảm động nhớ đến những lần thờ phượng Chúa với những anh em người sắc tộc ở cao nguyên vào lúc 02 giờ sáng ngày ấy. Vì không được phép tụ tập đông người vào ban ngày, nhất là những ngày Chúa Nhật, mọi người dắt díu nhau trên những con đường mòn trơn trợt vì mưa bão dầm dề. Các anh em bồng bế theo cả những em bé còn ngủ trên lưng, trong tay thắp sáng những thanh củi ngo vừa cháy sáng vừa tỏa ra những cuộn khói đen dày đặt để sáng hôm sau khi mặt trời sáng rõ thì mũi người nào cũng đen thui vì đọng khói ngo. Và cũng trong những đêm ấy chúng tôi cũng đã hát thật say mê những bài thánh ca mà lời hát cứ còn đọng mãi trong tôi: …“Vâng ta sẽ chung nhóm ở thiên hà, là sông đẹp xinh không thể thuật ra, sông đây nơi nhóm của thánh dân trên trời, sông tràn từ ngôi Đức Chúa Trời…”. Chúng tôi vừa hát trong nước mắt, vừa hy vọng một ngày nào đó chúng tôi sẽ được cất lên cao thoát khỏi trần gian tăm tối đầy dẫy những thế lực thù nghịch để tự do thờ phượng và tôn vinh Đức Chúa Trời yêu thương của chúng tôi.
Và Đức Chúa Trời đã làm những điều thật là không mơ thấy nổi, Ngài đã thấy những giọt nước mắt của chúng ta, Ngài hứng lấy và đựng trong ve của Ngài và Ngài đã làm trỗi hơn những điều chúng ta cầu xin và suy tưởng nữa. Ngày hôm nay khi nhìn những khuôn mặt rạng rỡ của những người Việt Nam bước lên khán đài để tiếp nhận Cứu Chúa tôi lại nhớ đến những ánh mắt trong veo, những miệng cười tỏa sáng của những người anh em người sắc tộc. Thật lâu lắm rồi tôi không có dịp đến thăm các anh em không biết ai còn, ai mất, ai giữ được đức tin và tình yêu với Cứu Chúa Giêxu trong thời điểm đất nước đã dễ dàng hơn để rao giảng Tin Lành này. Ngày đó, khi tôi còn là một thanh niên mới tiếp nhận Chúa với tấm lòng khao khát tìm kiếm và khám phá tình yêu sâu rộng và mới mẽ của Cứu Chúa Giêxu, và tôi đã gặp trên cao nguyên hoang sơ, bên trong những con người giản dị và chân chất một tình yêu mạnh mẽ mà sâu đậm, thiêng liêng và thánh khiết đến vô cùng. Chính lòng yêu mến Chúa của các anh em sắc tộc đã soi cho tôi thấy sự còi cọc của tình yêu Chúa và đời sống tâm linh nghèo ngặt trong tôi và tôi đã ước ao được như họ. Họ đã sống thật, yêu thật và sẵn sàng trả giá cho tình yêu Chúa, thậm chí bằng chính máu của mình trong những ngày bị bắt bớ vì cớ Danh Chúa. Tôi thiết nghĩ ngay cả những môn đồ đầu tiên trong thời của Chúa Giêxu cũng chỉ chân thật và hết lòng đến thế mà thôi. Và từ đó tôi đã tự hứa với lòng mình rằng tôi sẽ cố gắng sống chân thật và yêu Chúa chân thật như họ, không những lời cầu nguyện văn hoa và sáo rỗng, không những lời đãi ngôn cao kỳ, không những cảm xúc màu mè giả tạo mà chỉ là yên lặng và tân hiến, hy sinh, can đảm và khí phách trước những bạo ngược và bắt bớ.
Giữa chênh vênh núi rừng, có những Cơ đốc nhân đơn sơ nhưng yêu Chúa hết lòng.
… “Giêxu tình yêu rất thiết tha, Giêxu tình yêu không chóng qua, Giêxu tình yêu không phôi pha, Giêxu Ngài là tình yêu đời đời.
… “Giêxu vì con mang đắng cay, Giêxu vì con đã chết thay, Giêxu tình yêu Agapê, Giêxu Ngài là Cha đời đời..”
…”Tình yêu của Chúa đã cứu rỗi con, tình yêu cuả Chúa đã nâng đỡ con, tình yêu của Chúa đã đến với con để con được sống.”
… “Tình yêu của Chúa đã tha thứ con, tình yêu của Chúa kéo con trở lại, tình yêu của Chúa thôi thúc trong hãy sống yêu thương …”
Có những lúc mệt mỏi và muốn thối lui tôi đã hát bài hát này với những ca từ giản dị và thiết tha cùng giai điệu sâu lắng, đã làm mới lại tình yêu Chúa trong tôi; đó cũng là sáng tác của một anh em người sắc tộc mà tôi tin rằng những ai đã thể nghiệm tình yêu của Chúa khi hát lên đều cảm thấy như đây là lời nói tuôn ra từ tận đáy lòng mình. Phải, trên thế gian này không có một tình yêu nào lại có tác động mạnh mẽ trên tâm lòng cuả con người như tình yêu của Chúa, một tình yêu không chóng qua và phai tàn theo năm tháng mà luôn nâng đỡ và khích lệ con người hãy sống và yêu thương. Cảm ơn Chúa vì ngoài tám gương của Chúa Giêxu, Ngài còn để lại trên trần gian này những con người, những cuộc đời để làm tấm gương cụ thể nâng đỡ và khích lệ chúng ta trên bước đường về thiên quốc. Đó có thể là những nhà truyền giáo đầy ơn với những sứ điệp khuấy động lòng người; những mục sư tận tuỵ với những bài giảng sâu sắc và khích lệ: những người hầu việc Chúa âm thầm tận hiến và hy sinh ….Và đối với tôi trong danh sách đó còn có những người anh em sắc tộc trên cao nguyên hoang sơ mà yêu Chúa hết lòng đó nữa, nguyện Chúa ban phước và giữ gìn đức tin của anh em cho đến ngày cuối cùng.
Tôi ước mong rằng tình yêu cuả Chúa không bao giờ phai tàn trong cuộc đời của chúng ta là những con dân của Ngài trong bất kỳ giai đoạn nào, dù là trong lúc khó khăn bắt bớ hay là hiên tại đang được tự do rao giảng Tin Lành như lời của Sứ Đồ Phao Lô gởi cho Hội Thánh ở thành Rôma trong sách Rôma 8:38 … “Vì tôi chắc rằng bất kỳ sự chết, sự sống, các thiên sứ, các kẻ cầm quyền, việc bây giờ, việc hầu đến, quyền phép, bề cao, hay là bề sâu, hoặc một vật nào, chẳng có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương mà Đức Chúa Trời đã chứng cho chúng ta trong Đức Chúa Jêsus Christ, là Chúa chúng ta.”
Nguyễn Đức Huy
Đà lạt, ngày 17/02/2010
Bài viết dự thi truyện ngắn hay 2010
Tôi mê mẩn từng con bọ tròn bé tí đủ màu đậu trên lá chè. Rồi cả đến con Nhện Tàu với hai cạnh nhọn cứng, nằm giữa màng tơ được thiết kế tuyệt đẹp, ngắm hoài cũng không thấy chán.
Tôi luôn thấy kỳ diệu về thiên nhiên quanh mình! Có thắc mắc gì đem hỏi mẹ thì đều nghe: “Tại Chúa làm nó như vậy” thật giản đơn mà đầy đủ!
Tuổi thơ tôi… những buổi chiều gối đầu trên cỏ, thả cho trí tưởng tượng bay vào những đám mây. Tôi có thể thấy cả một tòa lâu đài đồ sộ với mái tròn tròn, chẳng mấy chốc, tòa lâu đài biến thành gã khổng lồ đội mũ, rồi gã to lớn đó cựa mình biến thành chú chó bông. Cứ thế… biết bao lần trong những năm tháng ấy, tôi ngủ thiếp đi giữa mùi cỏ mà trên cao “màn ảnh rộng” Chúa ban cho tôi vẫn không ngừng chiếu.
Tôi yêu tuổi thơ tôi với những nỗi sợ dễ thương. Có buổi tối thò tay ăn vụng cái bánh của bà Ngoại, bên ngoài trời chớp sáng, tôi điếng người thầm nghĩ “Thôi rồi! Chúa chụp hình” Bỏ vội chiếc bánh vào miệng vừa xin lỗi Chúa vừa đỗ thừa “…tại bánh ngon và tại con thèm quá”
Tôi không thấy Chúa, nhưng thiên nhiên quanh tôi khiến tôi cảm nhận rằng ở đâu cũng có sự hiện diện Ngài. Trong từng lá trúc đêm trăng, từng tiếng thông reo trên đồi… đều nói lên tâm hồn của Chúa.
Tuổi thơ tôi vậy đó, quà vặt là trái ổi, khúc mía trong vườn. Búp bê là cái gối ôm có đội mũ, mặc áo, mang quần, và trong tay tôi “em” được ôm ru chẳng khác gì một em bé. Tôi cầu nguyện khi bé gối bịnh, tôi ẳm bé đi nhà thờ… tôi làm đủ mọi thứ trong một không gian nhỏ xíu dưới gầm bàn, mà niềm vui thì lớn cho đến nỗi bây giờ tôi vẫn còn cảm nhận được.
Có những buổi tối ở nhà một mình, hãi hùng bóng đêm với tiếng lá xào xạc bí ẩn…Tôi lại cất tiếng hát lớn “Đừng sợ chi… hãy tin Ngài…”
Tuổi thơ thật đẹp đã sưởi ấm lòng tôi khi mỗi ký ức đều đong đầy đặc ân của Chúa
Tôi yêu thích tuổi thơ tôi, cũng có những buồn tủi, nước mắt… nhưng đặc ân được cảm nhận sự hiện hữu của Chúa đã bù đắp cho tất cả. Đến nỗi … khi tôi suy nghĩ về trẻ thơ ngày hôm nay, tôi thấy chúng thiệt thòi trong môi trường hiện đại.
Con tôi, chúng thấy gì trong thành phố lớn nhất nước này? Nhà cao tầng, dây điện, xe cộ, phố xá… Có mấy trẻ chịu từ chối phim hoạt họa hấp dẫn để nhìn mây, nhìn trăng?
Khi ngắm hoa trong bình nó hỏi “ai cắm hoa đẹp thế?” Nhìn cây lá trong công viên nó hỏi “ai trồng cây này?”
Xưa, tôi nhìn đâu cũng thấy Chúa. Nay, con tôi nhìn đâu cũng thấy người.
Người ta thường nói trẻ con bây giờ sướng … Tôi chỉ biết lặng thinh. Và tận trong sâu xa tôi thấy mình nhận nơi Chúa trách nhiệm phải giúp con mình nhìn thấy Chúa trong cuộc sống. Làm sao cho chúng hiểu rằng khi bình minh lên rực rỡ, mọi người chìm đắm vào công việc cho đến khi hoàng hôn xuống, cả bầu trời đều thay đổi màu để con người được nghỉ ngơi… Và cho dù ai có làm gì… thì ở một nơi nào đó Chúa vẫn đang lặng lẽ vận hành, điều khiển và chăm sóc chúng ta bằng tất cả tình yêu của Ngài.
Tôi yêu tuổi thơ tôi…
Thy Ca (Hạt Muối, tháng 12 – 2009)