Năm 2004, nhà triết học vô thần nổi tiếng Antony Flew, 81 tuổi, gây chấn động thế giới khi tuyên bố “có Chúa”, nhờ bằng chứng DNA. Muộn còn hơn không, Flew cuối cùng đã nhận thấy điều các nhà khoa học vĩ đại nhất đã khẳng định từ lâu: Vũ trụ được thiết kế bởi Nhà Thiết kế vĩ đại, đấng ban hành các định luật tự nhiên, những nguyên lý phổ quát, những hệ thông tin điều khiển …
Antony Flew là ai?
Đó là một nhà triết học nổi tiếng người Anh, Giáo sư Đại học Oxford và nhiều đại học danh tiếng khác trên thế giới, vốn là một nhà biện hộ kiên trì của chủ nghĩa tự nhiên và thuyết tiến hóa, nhưng đã “phản bội” lại niềm tin cố hữu của mình để tuyên bố DNA là bằng chứng cho thấy “có Chúa”. Đây là một đòn trời giáng lên chủ nghĩa tự nhiên và thuyết tiến hóa, dẫn tới những cuộc tranh cãi om sòm trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21. Tình hình này đã được phản ánh trên tờ The New York Times ngày 23/12/2007[1]:
“Năm 2001, tin đồn bắt đầu xuất hiện trên các trang blog rằng Antony Flew, một triết gia người Anh sinh năm 1923, đã tìm thấy Chúa sau sáu thập kỷ theo thuyết vô thần. Lúc đầu, Flew phủ nhận các tin đồn đó. Nhưng vào tháng 5 năm 2004, ông đã nói công khai trong một hội nghị ở New York rằng ông đã thực sự thay đổi suy nghĩ và đã trở thành một người có niềm tin (vào Chúa). Một loạt các chuyên gia trực tuyến đã tranh luận về ý nghĩa của sự thay đổi gây sốc này. Bây giờ, trong một cuốn sách được viết cùng với Roy Abraham Varghese, Flew đã kể về câu chuyện “khám phá ra điều thiêng liêng” của mình”.
Tiêu đề cuốn sách đó là: “There is a God: How the World’s Most Notorious Atheist Changed His Mind”[2] (Có một Chúa: Nhà vô thần nổi tiếng nhất thế giới đã thay đổi ý nghĩ như thế nào), do Harper Collins xuất bản đầu năm 2008.
Lời Nói Đầu do Roy Varghese viết, mở đầu bằng những lời sau đây:
“Nhà vô thần nổi tiếng bây giờ tin vào Chúa: Một trong những nhà vô thần hàng đầu thế giới bây giờ tin vào Chúa, dù ít hay nhiều, dựa trên bằng chứng khoa học. Đó là tiêu đề một câu chuyện do hãng tin AP (Associates Press) loan tải ngày 9/12/ 2004, trong đó nói tiếp: “Một giáo sư triết học người Anh, người đã đứng ở hàng đầu bênh vực cho chủ nghĩa vô thần trong hơn nửa thế kỷ, nay đã thay đổi suy nghĩ. Bây giờ ông tin vào Chúa, ít nhiều dựa trên bằng chứng khoa học, và ông đã nói như vậy trên một video được phát hành hôm Thứ Năm”. Gần như ngay lập tức, thông báo này đã trở thành một sự kiện truyền thông lan tỏa qua các bản tin và bình luận của các đài phát thanh, truyền hình, báo chí và trên các trang mạng Internet toàn cầu”.
Flew giải thích lý do tại sao ông thay đổi quan điểm:
“Bây giờ tôi tin rằng có Chúa … Hiện nay tôi nghĩ rằng bằng chứng chỉ ra một Trí thông minh sáng tạo gần như hoàn toàn nhờ vào những nghiên cứu về DNA. Cái mà tôi cho rằng phân tử DNA đã làm được là ở chỗ, với sự phức tạp gần như không thể tin được của các cách sắp xếp cần thiết để tạo ra sự sống, nó đã chứng tỏ rằng trí thông minh phải tham gia vào việc kết hợp các yếu tố vô cùng đa dạng này để cùng hoạt động”[3].
Flew phê phán quan điểm cho rằng vũ trụ ra đời từ sự may rủi ngẫu nhiên. Ông nói:
“Hầu như không có nhà khoa học lớn nào ngày nay tuyên bố rằng việc tinh chỉnh hoàn toàn là kết quả của các yếu tố may rủi khi hoạt động trong một vũ trụ duy nhất”[4].
Việc “tinh chỉnh” ở đây là việc gì? Đó là sự điều chỉnh các hằng số vật lý cơ bản sao cho sự sống có thể tồn tại, thường được gọi là “Nguyên lý vị nhân” (anthropic principle). Trong cuốn “A Brief History of Time” (Lược sử Thời gian), Stephen Hawking đã nói khá nhiều đến nguyên lý vị nhân để giải thích tại sao các hằng số vũ trụ phải chính xác như nó có, và không thể thay đổi. Đó là một trong những biểu hiện rõ ràng nhất cho thấy vũ trụ đã được thiết kế rất tinh vi, chính xác, để sự sống có thể tồn tại. Rất tiếc là Hawking lúc về già đã từ bỏ những tư tưởng của chính mình lúc còn trẻ, để nói ra những lời rất vô nghĩa, chẳng hạn, nhờ những định luật như luật hấp dẫn, vũ trụ có thể tự tạo ra nó từ hư không. Ông ngạo mạn tuyên bố “triết học đã chết”, nhưng chính triết học của bản thân ông đã chết. Nhà toán học John Lennox của Đại học Oxford bình luận ý kiến của Hawking, rằng vô nghĩa vẫn là vô nghĩa, dù cho nó được nói ra bởi những nhà khoa học nổi tiếng thế giới.
Trong khi đó, nguyên lý vị nhân tiếp chinh phục các nhà khoa học, bởi tính thuyết phục của nó – không có lý do hợp lý nào khác để giải thích tại sao các hằng số vật lý cơ bản lại bất biến và phù hợp với sự sống như thế. Đó là lý do để Antony Flew áp dụng nguyên lý này khi ông bác bỏ quan điểm cho rằng vũ trụ đã ra đời một cách may rủi, tình cờ – sự may rủi tình cờ không thể tạo ra những thiết kế hợp lý và chính xác, phù hợp với sự sống như vậy. Rõ ràng là Flew muốn đáp trả những ý kiến ngớ ngẩn, phản khoa học và điên rồ cho rằng sự may rủi tình cờ là nguồn gốc tạo nên mọi thứ – nền tảng triết học của chủ nghĩa tự nhiên và thuyết tiến hóa, mà Jacques Monod là người phát ngôn mạnh miệng nhất. Từ ý kiến của Flew, có thể thấy Jacques Monod không phải là một nhà khoa học lớn, dù ông ta đoạt Giải Nobel năm 1965. Một nhà khoa học lớn không thể có cách giải thích thế giới tầm thường như thế.
Nhưng nhà khoa học lớn là những ai? Câu hỏi này sẽ được thảo luận trong mục tiếp theo. Còn bây giờ xin tiếp tục thảo luận về Flew, với 2 ý kiến của ông cho thấy vai trò thiết yếu của TRÍ THÔNG MINH SÁNG TẠO trong sự hình thành vũ trụ và sự sống. Ông nói:
“Khoa học nêu bật 3 chiều kích của Tự nhiên hướng về Chúa. Thứ nhất là trên thực tế, Tự nhiên tuân thủ các định luật. Thứ hai là chiều kích của sự sống, của những sinh vật sinh ra từ vật chất được tổ chức một cách thông minh và có mục đích. Thứ ba là chính sự tồn tại của Tự nhiên”[5].
Với ý kiến này, thật khó mà tin rằng trong 6 thập kỷ trước đây Flew từng là một nhà triết học vô thần. Xin nhắc lại ý kiến của Flew để nhấn mạnh:
● Trong thực tế, Tự nhiên không hỗn loạn, mà tuân thủ trật tự. Mọi hệ thống có trật tự, có tổ chức đều phải được điều hành bởi một hệ điều hành, do một trí tuệ thông minh điều khiển. Sự ngẫu nhiên không bao giờ tạo ra trật tự, mà chỉ tạo ra sự hỗn loạn. “Triết học tự nhiên” của Jacques Monod – “triết học” coi sự may rủi ngẫu nhiên là nguồn gốc tạo ra vũ trụ và sự sống – là một thứ triết học điên rồ, ngạo mạn, chống lại Định luật Entropy. Theo định luật này, mọi hệ thống đều có xu hướng ngày càng mất trật tự hơn, nếu hệ thống ấy không được bổ sung năng lượng và không có thông tin điều khiển để biến năng lượng bổ sung thành năng lượng có ích (năng lượng thô không đủ, thậm chí còn có hại, phải có thông tin điều khiển để biến năng lượng thô thành năng lượng có ích)
● Bản thân sự sống là bằng chứng “có Chúa”, vì sự sống là hệ thống vật chất có tổ chức rất cao, có độ trật tự rất cao. Chẳng hạn, thứ tự của các acid amin trong chuỗi polypeptide là một thứ tự xác định. Sự may rủi ngẫu nhiên không thể tạo ra thứ tự đó.
● Bản thân thế giới tự nhiên cũng chính là một bằng chứng cho thấy “có Chúa”, vì thế giới ấy tuân thủ “nguyên lý vị nhân” để cho chúng ta tồn tại …
Là một nhà triết học sống trong phần lớn thế kỷ 20, Flew biết rõ quan điểm cực kỳ vô nghĩa của chủ nghĩa tự nhiên khi cho rằng vũ trụ có thể tự nó sinh ra từ hư không. Ông chất vấn:
“Nếu bạn có một phương trình mô tả chi tiết xác suất của một cái gì đó nẩy sinh từ chân không, bạn sẽ vẫn phải hỏi tại sao phương trình đó lại được áp dụng. Trên thực tế, Hawking đã lưu ý đến sự cần thiết của một yếu tố sáng tạo để thổi lửa vào các phương trình”[6].
Không rõ câu nói này ám chỉ ai, nhưng dường như là một thông điệp nhắn gửi tới Sephen Hawking, vì Hawking giai đoạn cuối đời cho rằng vũ trụ có thể tự nó sinh ra từ hư không.
Còn nhiều ý kiến thú vị khác của Antony Flew rất đáng được thảo luận, nhưng tốt hơn hết, độc giả hãy tìm đọc cuốn sách của ông. Bây giờ là lúc phải trả lời câu hỏi ai là nhà khoa học lớn, và chúng ta học được những gì từ những nhà khoa học lớn?
Có thể nêu lên một danh sách gồm 100 nhà khoa học lớn, nhưng trong danh sách 100 ấy, có thể chọn ra 10 nhà khoa học lớn nhất. Việc bàu chọn này không tránh khỏi quan điểm cá nhân, tuy nhiên danh sách 10 nhà khoa học lỗi lạc nhất mọi thời đại sau đây được tuyển chọn từ nhiều bản danh sách đã được công bố trên mạng Internet hoặc trong nhiều sách báo khác nhau.
10 nhà khoa học lỗi lạc nhất mọi thời đại
- Nicolaus Copernicus (1473-1543)
- Blaise Pascal (1623-1662)
- Isaac Newton (1643-1727)
- Gregor Mendel (1822-1884)
- Louis Pasteur (1822-1895)
- Lord Kelvin (1824-1907)
- Nicola Tesla (1856-1943)
- Max Planck (1858-1947)
- Albert Einstein (1879-1955)
- Kurt Gödel (1906-1978)
Đó là 10 thiên tài dường như có sứ mệnh khai sáng cho nhân loại trong những thế kỷ gần đây. Đặc điểm chung của họ là tất cả đều tin vào Đấng Sáng tạo như Nhà Thiết kế và Điều hành Vũ trụ. Khác với suy nghĩ của nhiều người, niềm tin này không xuất phát từ tôn giáo, mà xuất phát từ NHU CẦU của chính bản thân khoa học, như một ĐIỀU KIỆN CẦN của một hệ vật chất tuân thủ logic! Để thấu hiểu điều này, xin lắng nghe ý kiến của các nhà khoa học lỗi lạc đó.
Nicolaus Copernicus
● “Biết những công trình vĩ đại của Đức Chúa Trời, hiểu được sự khôn ngoan, uy nghi và quyền năng của Ngài; thán phục tầm vóc và những hoạt động kỳ diệu của những bộ luật do Ngài ban hành, chắc chắn tất cả những điều này phải là cách thờ phượng làm đẹp lòng Đức Chúa Trời và có thể chấp nhận được đối với Ngài – Đấng mà chỉ có sự hiểu biết mới biết ơn, còn sự ngu dốt thì không” (To know the mighty works of God, to comprehend His wisdom and majesty and power; to appreciate, in degree, the wonderful workings of His laws, surely all this must be a pleasing and acceptable mode of worship to the Most High, to whom ignorance cannot be more grateful than knowledge.)[7]
● “Thông qua sự quan sát chín chắn và sự tiếp xúc có ý nghĩa với trật tự thần thánh của cấu trúc thế giới, được sắp đặt bởi sự khôn ngoan của Đức Chúa trời, liệu ai sẽ không được hướng dẫn để chiêm ngưỡng Nhà Tạo dựng – Đấng tạo ra tất cả!” (Through steady observation and a meaningful contact with the divined order of the world’s structure, arranged by God’s wisdom, who would not be guided to admire the Builder who creates all!)[8].
Blaise Pascal
● Chúng ta biết rằng có một số vô vô cùng lớn, và chúng ta không biết bản chất của nó. Chúng ta sẽ sai nếu cho rằng (tập hợp) số là hữu hạn, do đó sẽ đúng nếu cho rằng có một sự vô hạn về số. Nhưng chúng ta không biết số vô cùng lớn là số thế nào; nó không phải số chẵn, cũng không phải số lẻ; vì cộng thêm 1 cũng chẳng làm thay đổi bản chất của nó; tuy nhiên đó là một con số, và mọi số hữu hạn đều chẵn hoặc lẻ. Vậy chúng ta có thể biết khá rõ rằng có một Chúa mà không biết Ngài là gì (We know that there is an infinite, and we know not its nature. As we know it to be false that numbers are finite, it is therefore true that there is a numerical infinity. But we know not of what kind; it is untrue that it is even, untrue that it is odd; for the addition of a unit does not change its nature; yet it is a number, and every number is odd or even (this certainly holds of every finite number). Thus we may quite well know that there is a God without knowing what He is)[9]
● Những nguyên lý đầu tiên này chỉ có thể nắm bắt được bằng trực giác, và rằng sự thật này khẳng định sự cần thiết phải nhờ cậy đến Chúa trong việc khám phá chân lý (These principles can be grasped only through intuition, and that this fact underscored the necessity for submission to God in searching out truths)[10]
Isaac Newton
● Từ vòi phun này (ý chí tự do của Đức Chúa Trời), chính những quy luật mà chúng ta gọi là định luật tự nhiên, đã tuôn chảy… (From this fountain (the free will of God) it is those laws, which we call the laws of nature, have flowed)[11] …
● Hệ thống đẹp nhất này gồm mặt trời, các hành tinh và sao chổi, chỉ có thể xuất phát từ ý định và sự chi phối của một Đấng thông minh và quyền năng (This most beautiful system of the sun, planets and comets, could only proceed from the counsel and dominion of an intelligent and powerful Being)[12].
● Đừng ngờ vực Đấng Sáng tạo, bởi không thể nào hiểu được ý nghĩ cho rằng sự tình cờ một mình nó có thể là người điều khiển vũ trụ (Don’t doubt the Creator, because it is inconceivable that accidents alone could be the controller of the universe)[13]
Có một câu chuyện về Newton được lưu truyền trên nhiều sách báo, đại ý như sau:
Một hôm, một nhà khoa học vô thần là bạn của Newton đến thăm Newton. Trông thấy một mô hình vũ trụ trên bàn làm việc của Newton, ông bạn ấy bị thu hút. Mô hình này rất đẹp, được chế tạo khéo léo, chứng tỏ một tay nghề có trình độ cao. Ông bạn ấy lại gần mô hình, chiêm ngắm nó, xem xét rất kỹ lưỡng một hồi lâu, rồi không giấu được sự ngưỡng mộ đối với người thợ đã chế tạo ra mô hình ấy, ông thốt lên:
- Ôi, một mô hình tuyệt vời làm sao! rồi ông quay sang hỏi chủ nhân, Ai làm ra mô hình này đấy, thưa ngài?
- Không ai cả, Newton trả lời với vẻ lãnh đạm, không bận tâm tới câu hỏi.
Vị khách dừng quan sát mô hình, quay lại, nói với Newton:
- Oh, rõ ràng là ngài không hiểu câu hỏi của tôi. Tôi hỏi ai đã làm ra cái mô hình này?
Newton thấy thú vị, nhưng vẫn trả lời bằng một giọng điềm đạm:
- Không ai cả.
- Sao lại thế? Tất nhiên phải có ai đó chế tạo ra nó chứ? Vị khách tỏ ra bực mình, giọng gắt gỏng, rồi nhắc lại câu hỏi rõ ràng hơn, nhấn mạnh hơn, người thợ nào làm ra mô hình này ắt phải là một thiên tài, và tôi muốn biết người ấy là ai!
Lúc ấy Newton mới nói với bạn mình một cách lịch sự nhưng chắc nịch:
- Mô hình này chỉ là một đồ chơi bắt chước một hệ thống vĩ đại hơn rất nhiều mà ngài đã biết quy luật hoạt động của nó rồi đấy. Đó là Hệ Mặt Trời. Nhưng ngài thấy đấy, tôi đã không thể thuyết phục ngài rằng mô hình đồ chơi này không có nhà thiết kế hoặc người chế tạo ra nó. Ấy thế mà ngài lại tin rằng cái mô hình lớn vĩ đại kia không có nhà thiết kế hoặc người chế tạo ra nó! Vậy ngài hãy nói cho tôi xem căn cứ vào đâu mà ngài lại có kết luận vô lý như thế?
Dù câu chuyện nói trên giống như một truyện ngụ ngôn, nó vẫn xứng đáng làm bài học để nói với những nhà khoa học theo chủ nghĩa tự nhiên, rằng vì cớ gì mà quý vị bảo rằng vũ trụ tự tạo ra nó từ hư không? Hoặc vì cớ gì mà quý vị bảo rằng sự sống đã ra đời một cách ngẫu nhiên từ vật chất vô sinh? Quý vị có bằng chứng gì không? Nếu không có bằng chứng, tại sao quý vị lại đem niềm tin của quý vị ra để nói với mọi người cứ như một sự thật như thế? Quý vị cũng vô lý y như ông bạn của Newton đó mà thôi, bất kể quý vị là nhà khoa học đoạt Giải Nobel hay có danh hiệu nào khác.
Gregor Mendel
Bản thân Mendel là một tu sĩ Công giáo. Thậm chí ông đã được bàu làm Tu viện trưởng Tu viện Thánh Thomas ở Brno. Vì thế, niềm tin của ông vào Chúa là điều tất yếu. Tuy nhiên, với trái tim nồng nàn yêu khoa học, yêu công việc vườn tược, Mendel đã từng có những mô tả về Chúa như một người làm vườn, một hình ảnh rất thân thương, đặc biệt với những ai thích làm vườn, thích quan sát sự sống. Độc giả sẽ được biết ý kiến của Mendel về Chúa như một người làm vườn trong một cuốn sách sắp được xuất bản: “Louis Pasteur và Gregor Mendel 200 tuổi (1822 – 2022)”, nhân dịp kỉ niệm 200 năm ngày sinh của 2 nhà sinh học khổng lồ này.
Louis Pasteur
Tương tự như trường hợp của Mendel, xin độc giả đón đọc những ý kiến của Louis Pasteur trong cuốn sách nói trên. Hy vọng cuốn sách đó sẽ mang đến cho độc giả những thông tin thú vị về Louis Pasteur và Gregor Mendel chưa từng có trên bất cứ sách báo Việt ngữ nào khác.
Lord Kelvin
● Chúng ta chỉ nhận thấy Chúa thông qua các công trình của Ngài, nhưng khoa học buộc chúng ta phải thừa nhận và tin tưởng tuyệt đối vào một Sức mạnh Chi phối – trong một ảnh hưởng khác với các lực vật lý hoặc lực động học, lực điện (We only know God in His works, but we are forced by science to admit and to believe with absolute confidence in a Directive Power – in an influence other than physical, or dynamical, or electrical forces)[14].
● Nếu bạn nghiên cứu khoa học đủ sâu và đủ lâu, nó sẽ buộc bạn phải tin vào Chúa (If you study science deep enough and long enough, it will force you to believe in God)[15].
Nicola Tesla
● Món quà sức mạnh tinh thần đến từ Đức Chúa Trời, Đấng thiêng liêng, và nếu chúng ta tập trung tâm trí vào sự thật đó, chúng ta sẽ hòa hợp với sức mạnh vĩ đại này. Mẹ tôi đã dạy tôi tìm kiếm tất cả lẽ thật trong Kinh thánh. (The gift of mental power comes from God, Divine Being, and if we concentrate our minds on that truth, we become in tune with this great power. My Mother had taught me to seek all truth in the Bible)[16].
● Bộ não của tôi chỉ là bộ phận tiếp nhận, trong Vũ trụ có một tâm lõi mà từ đó chúng ta có được kiến thức, sức mạnh và nguồn cảm hứng. Tôi đã không thâm nhập được vào những bí mật của tâm lõi này, nhưng tôi biết rằng nó tồn tại. (My brain is only a receiver, in the Universe there is a core from which we obtain knowledge, strength and inspiration. I have not penetrated into the secrets of this core, but I know that it exists)[17].
Max Planck
● Cả tôn giáo lẫn khoa học đều cần đến niềm tin vào Chúa cho các hoạt động của chúng, và hơn thế nữa Chúa cần cho tôn giáo lúc khởi đầu, và cần cho khoa học lúc kết thúc toàn bộ tư duy. Đối với tôn giáo, Chúa đại diện cho nền tảng, đối với khoa học, Chúa là đỉnh cao nhất của bất kỳ lý lẽ nào liên quan đến thế giới quan (Both religion and science need for their activities the belief in God, and moreover God stands for the former in the beginning, and for the latter at the end of the whole thinking. For the former, God represents the basis, for the latter – the crown of any reasoning concerning the world-view)[18]
● Không bao giờ có thể có bất kỳ sự đối lập thực sự nào giữa tôn giáo và khoa học; vì cái này là bổ sung của cái kia … Và quả thực không phải ngẫu nhiên mà các nhà tư tưởng vĩ đại nhất mọi thời đại đều là những người có tâm hồn tôn giáo sâu sắc. (There can never be any real opposition between religion and science; for the one is the complement of the other … And indeed it was not by accident that the greatest thinkers of all ages were deeply religious souls)[19].
Albert Einstein
● Nếu trong tôi có điều gì đó có thể được gọi là tôn giáo thì đó là sự ngưỡng mộ vô bờ bến đối với cấu trúc của thế giới trong phạm vi mà khoa học của chúng ta có thể khám phá. (If something is in me which can be called religious then it is the unbounded admiration for the structure of the world so far as our science can reveal it).
● Tôi muốn biết Chúa đã tạo ra thế giới này như thế nào. Tôi không quan tâm đến hiện tượng này hay hiện tượng nọ, trong quang phổ của nguyên tố này hay nguyên tố kia. Tôi muốn biết suy nghĩ của Chúa. Phần còn lại là chi tiết. (I want to know how God created this world. I am not interested in this or that phenomenon, in the spectrum of this or that element. I want to know his thoughts. The rest are details).
● Tôi nhìn thấy một mô hình, nhưng trí tưởng tượng của tôi không thể hình dung ra người tạo ra mô hình đó. Tôi nhìn thấy một chiếc đồng hồ, nhưng tôi không thể hình dung ra người chế tạo chiếc đồng hồ đó. Trí óc con người không thể quan niệm được 4 chiều, vậy làm sao nó có thể quan niệm về một vị Chúa, mà đối với Ngài một nghìn năm và một nghìn chiều cũng chỉ là một? (I see a pattern, but my imagination cannot picture the maker of that pattern. I see a clock, but I cannot envision the clockmaker. The human mind is unable to conceive of the four dimensions, so how can it conceive of a God, before whom a thousand years and a thousand dimensions are as one?)
● Chúng ta không biết gì về Chúa cả. Tất cả kiến thức của chúng ta chỉ là kiến thức học trò. Có thể (trong tương lai) chúng ta sẽ biết nhiều hơn một chút so với hiện tại, nhưng về bản chất thực của sự vật, chúng ta sẽ không bao giờ biết, không bao giờ. (We know nothing about [God, the world] at all. All our knowledge is but the knowledge of schoolchildren. Possibly we shall know a little more than we do now. but the real nature of things, that we shall never know, never).
● Tự nhiên chỉ cho chúng ta thấy cái đuôi của con sư tử. Nhưng trong tâm trí tôi, không nghi ngờ gì nữa rằng có một con sư tử có cái đuôi ấy, cho dù nó không thể lộ diện toàn bộ trước mắt chúng ta cùng một lúc, vì kích thước khổng lồ của nó. (Nature shows us only the tail of the lion. But there is no doubt in my mind that the lion belongs with it even if he cannot reveal himself to the eye all at once because of his huge dimension)[20]
Kurt Gödel
Đối với Gödel, không cần có một trích dẫn nào cả, vì ông đã có hẳn một công trình logic toán học chứng minh sự hiện hữu của Chúa. Độc giả có thể tìm hiểu về công trình đó bắt đầu từ bài báo sau đây:
Gödel’s Proof of God’s Existence / Gödel chứng minh sự hiện hữu của Chúa
Kết luận
Mỗi khi nhắc đến “Chúa” (God), nhiều người nghĩ ngay đến “Chúa” của tôn giáo. Trong nhiều trường hợp, điều này đúng, nhưng trong nhiều trường khác lại SAI. Tại sao?
Vì có những người tin vào Chúa của khoa học mà không tin vào Chúa của tôn giáo. Điển hình là Albert Einstein. Ông tin vào Chúa như Đấng Sáng tạo, hoặc Nhà Thiết kế Vũ trụ, Đấng ban hành các bộ luật của vũ trụ, nhưng ông không tin vào Chúa của các tôn giáo, như Do Thái giáo, Cơ đốc giáo …
Niềm tin của Albert Einstein vào Chúa được xếp vào loại tôn giáo “phiếm thần” (pantheism), tức là có Đấng Sáng tạo ra vũ trụ nhưng không có thần thánh.
Vậy Einstein là người vô thần hay hữu thần? Người ta hay tranh cãi xung quanh câu hỏi này, mà quên đi rằng chính Einstein đã trả lời: “Nếu trong tôi có điều gì đó có thể được gọi là tôn giáo thì đó là sự ngưỡng mộ vô bờ bến đối với cấu trúc của thế giới trong phạm vi mà khoa học của chúng ta có thể khám phá” (đã dẫn).
Vậy Einstein tự coi mình là người hữu thần, chúng ta nên bằng lòng với ông và tôn trọng quan điểm tôn giáo phiếm thần của ông.
Ngoài Einstein, trong số 10 nhà khoa học vĩ đại nhất mọi thời đại được tôn vinh trong bài báo này, 9 người còn lại vừa tin vào Chúa của khoa học, vừa tin vào Chúa của tôn giáo. Người nói rõ điều này hơn ai hết là Max Planck. Đối với Planck, Chúa là nền tảng của mọi nhận thức tôn giáo, và Chúa có mặt ngay từ đầu đối với tôn giáo. Còn đối với khoa học, Chúa xuất hiện như một điều kiện tất yếu – điều kiện cần của một hệ logic – vào lúc kết thúc mọi khám phá. Thí dụ điển hình chính là trường hợp DNA.
DNA đã đưa sinh học đến điểm tận cùng của khoa học về sự sống, với câu hỏi:
- Mã DNA từ đâu mà ra?
Như chúng ta đã biết, Antony Flew kết luận DNA là bằng chứng cho thấy Chúa hiện hữu! Nói cách khác, Chúa là Nhà Lập trình vĩ đại, tác giả của chương trình kiến tạo và duy trì sự sống, tức Mã DNA.
Francis Collins, nguyên Giám đốc Dự án Giải mã Bộ Gene Người, cũng kết luận tương tự: Mã DNA là Ngôn ngữ của Chúa!
Kết luận của Antony Flew và Francis Collins là kết luận của khoa học, thay vì tôn giáo!
Trong khi đó, những nhà khoa học theo chủ nghĩa tự nhiên bế tắc, không có câu trả lời. Vì bế tắc nên họ đổ vấy cho nguyên nhân của sự sống là ……… sự may rủi, ngẫu nhiên, “thời gian tự nó sẽ trình bày các phép lạ” (George Wald) (!)
Antony Flew tuy quá muộn (lúc 81 tuổi) mới nhận ra sự thật, nhưng rốt cuộc, ông vẫn là người khôn ngoan.
Còn những người như Jacques Monod, tuyên bố sự tình cờ ngẫu nhiên là nguồn gốc dẫn tới mọi thứ, là người dại dột, nếu không muốn nói là điên rồ, mặc dù đoạt Giải Nobel về sinh lý học & y khoa năm 1965!
Đó là kết luận.
DJP, Sydney 25/10/2022
Bài vở cộng tác hoặc góp ý xin gửi về tintuc@hoithanh.com
[1] https://www.nytimes.com/2007/12/23/books/review/Gottlieb-t.html
[2] https://www.amazon.com.au/There-God-Notorious-Atheist-Changed/dp/0061335304
[3] I now believe there is a God…I now think it [the evidence] does point to a creative Intelligence almost entirely because of the DNA investigations. What I think the DNA material has done is that it has shown, by the almost unbelievable complexity of the arrangements which which are needed to produce life, that intelligence must have been involved in getting these extraordinarily diverse elements to work together.
[4] Virtually no major scientist today claims that the fine tuning was purely a result of chance factors at work in a single universe > https://www.goodreads.com/author/quotes/143385.Antony_Flew
[5] Science spotlights three dimensions of nature that point to God. The first is the fact that nature obeys laws. The second is the dimension of life, of intelligently organized and purpose-driven beings, which arose from matter. The third is the very existence of nature.
[6] If you had an equation detailing the probability of something emerging from a vacuum, you would still have to ask why that equation applies. Hawking had, in fact, noted the need for a creative factor to breathe fire into the equations.
[7] https://www.azquotes.com/author/3262-Nicolaus_Copernicus#
[8] https://todayinsci.com/C/Copernicus_Nicolaus/CopernicusNicolaus-Quotations.htm
[9] https://www.azquotes.com/quote/572766
[10] Wikipedia > Blaise Pascal https://en.wikipedia.org/wiki/Blaise_Pascal
[11] https://todayinsci.com/N/Newton_Isaac/NewtonIsaac-God-Quotations.htm
[12] https://www.azquotes.com/quote/402549
[13] https://quotesgram.com/img/isasac-newtown-quotes-on-god/8959141/
[14] https://www.azquotes.com/quote/818282
[15] https://www.azquotes.com/quote/587233
[16] https://www.goodreads.com/quotes/817967-the-gift-of-mental-power-comes-from-god-divine-being
[17] https://www.goodreads.com/quotes/753175-my-brain-is-only-a-receiver-in-the-universe-there
[18] https://withalliamgod.wordpress.com/2010/11/28/max-planck-on-god/
[19] https://withalliamgod.wordpress.com/2010/11/28/max-planck-on-god/
[20] https://www.businessinsider.com/25-best-quotes-from-albert-einstein-2014-8#on-scope-2