Bài Viết
Một phóng sự gần đây của chương trình Thời Sự trên VTV1 (1) đã khiến nhiều người xem “giật mình” với con số 3 tỷ lít bia mà người Việt uống vào năm 2013, trung bình mỗi người uống 32 lít/một năm, nhiều nhất trong các nước Đông Nam Á. Vào dịp lễ tết thì hầu như bàn ăn nào cũng có bia rượu. Vậy Kinh thánh nói gì về vấn đề này?
Rượu trong Cựu ước
Cựu ước có nhiều chỗ nói về sản phẩm từ nho, cả chưa lên men (nước nho) lẫn đã lên men (hàm lượng cồn 12-15%)2. Trong số đó có những chỗ khá tích cực. Ví dụ, Thi thiên 104 liệt kê rượu nho như một trong những món quà từ Chúa: “Rượu nho, là vật khiến hứng chí loài người…” (câu 15). Châm ngôn 3:10, A-mốt 9:14 nhắc đến rượu nho từ vườn nhà như là một dấu hiệu của sự chúc phước từ Chúa. Rượu được dùng như phương thuốc (Châm ngôn 31:6), làm thành phần trong của lễ dâng (Xuất Ê-đíp-tô 19:40, Dân số 28:14), dùng cùng đồ ăn để vui vẻ trong sự hiện diện của Chúa và gia đình (Phục truyền 14:26).
Tuy nhiên, bên cạnh đó Cựu ước cũng có rất nhiều cảnh báo về việc lạm dụng rượu.“Khốn thay cho kẻ dậy sớm đặng tìm kiếm rượu, chầy đến ban đêm, phát nóng vì rượu”(Ê-sai 5:11), “Sự dâm dục, rượu cũ và rượu mới cất lấy hết trí khôn chúng nó” (Ô-sê 4:11) chỉ là vài trích dẫn làm ví dụ. Có những trường hợp say rượu dẫn đến hậu quả đáng tiếc, điển hình như Nô-ê say rượu và lõa thể trong trại mình (Sáng thế ký 9:20-25), các con gái của Lót chuốc rượu cho cha và làm sự loạn luân (Sáng thế ký 19:32-35), rượu dẫn đến bạo lực (Châm ngôn 4:17), nhạo báng và hỗn hào (Châm ngôn 20:1), nghèo đói (Châm ngôn 21:17)…
Trong một số trường hợp Cựu ước đòi hỏi con người không được uống rượu. Các thầy tế lễ không được uống rượu khi thực hiện bổn phận của mình trong hội mạc, ai vi phạm sẽ chết (Lê-vi 10:9), mặc dù họ được uống rượu khi không làm việc (Dân số 18:12). Các vua không được uống rượu trong khi phân xử (Châm ngôn 31:4-5). Trong thời gian hứa nguyện để biệt riêng mình cho Chúa, người Na-xi-rê không được uống bất kỳ vật gì gây say, thậm chí không được ăn nho tươi hay khô (Dân số 6).
Mùa nho tại Israel
Rượu trong Tân ước
Trong các sách Phúc âm, Giăng báp-tít là một người Na-xi-rê và đã kiêng rượu hoàn toàn (Lu-ca 7:33). Tuy nhiên, trong câu tiếp theo Chúa Giê-su tương phản lối sống của Ngài với Giăng báp-tít: “Con người đến, ăn và uống…” (Lu-ca 7:34). Phần ký thuật về phép lạ Chúa biến nước thành rượu gợi ý đó là rượu có men (Giăng 2, lưu ý câu 9-10). Trước câu hỏi tại sao lối sống của các môn đồ Ngài khác với lối sống của các môn đồ của Giăng báp-tít, Chúa nhấn mạnh đến nguyên nhân của việc lựa chọn lối sống ấy. “Bạn hữu của chàng rể có kiêng ăn được trong khi chàng rể còn ở cùng mình chăng? Hễ chàng rể còn ở với họ chừng nào, thì họ không thể kiêng ăn được đến chừng nấy.” (Mác 2:19). Lối sống, lời giảng của Giăng là một sự thách thức với xã hội đương thời và kêu gọi sự ăn năn. Lối sống của các môn đồ của Chúa (bạn của chàng rể) nhấn mạnh niềm vui vì “chàng rể” đã đến và đang ở cùng họ. Chú ý là Ngài cũng nói thêm rằng: “Song tới kỳ chàng rể phải đem đi khỏi họ, trong ngày đó họ sẽ kiêng ăn” (câu 20). Ở chỗ khác Ngài nói: “Từ rày về sau, Ta sẽ không uống trái nho này nữa, cho đến ngày mà ta sẽ uống trái nho mới cùng các ngươi ở trong nước của Cha ta.” (Ma-thi-ơ 26:29). Căn cứ trên câu này có những Cơ đốc nhân ủng hộ việc không uống rượu và đặt câu hỏi: “Nếu Ðức Chúa Giê-su, bởi lời phán của Ngài về việc uống rượu, đã chờ đợi chúng ta hơn hai ngàn năm nay, và sẽ còn tiếp tục chờ đợi nữa cho đến ngày cùng uống trái nho mới với chúng ta trong tiệc cưới Chiên Con, thì tại sao có nhiều anh em lại không thể đợi được cho đến lúc đó để có thể cùng uống chén nho mới với Chúa trong nước Ngài?”
Các thư tín có khá nhiều cảnh báo về việc say rượu, nghiện rượu (Rô-ma 13:13, Ê-phê-sô 5:18, 1 Cô-rinh-tô 5:11…). Đặc biệt lưu ý lời cảnh báo chúng ta “chớ tự dối mình”, và “những kẻ say sưa” cũng đưa vào danh sách “chẳng được hưởng nước Đức Chúa Trời đâu” (1 Cô-rinh-tô 6:10). Các lãnh đạo hội thánh càng cần phải tiết độ trong vấn đề này (1 Tim 3:3,8; Tít 2:3). Tuy nhiên, Phao-lô khuyên Ti-mô-thê “hãy dùng thêm tí rượu nho để giúp cho việc tiêu hóa vì con hay đau yếu” (1 Tim 5:23 – BDM).
Uống hay không uống?
Sự xem xét Kinh thánh như trên cho thấy rõ ràng “say rượu, nghiện rượu” là tội lỗi. Tuy vậy, cũng không có sự dạy dỗ rõ ràng về việc Cơ đốc nhân “được phép” hay “không được phép” uống rượu. Đây cũng là lý do khiến các giáo hội và các hệ phái có quan điểm khác nhau (thậm chí bất đồng) về câu hỏi này. Có người cho rằng Cơ đốc nhân có thể uống rượu ở mức vừa phải, có người lại lựa chọn kiêng cữ hoàn toàn.
Đối với những vấn đề tùy thuộc lương tâm của từng người như thế này, hai đoạn Kinh thánh đưa ra những nguyên tắc chung mà các Cơ đốc nhân cần xem xét là Rô-ma 14 và 1 Cô-rinh-tô 8-10.4 Theo đó, Cơ đốc nhân cần lưu ý:
“Vậy, anh em hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự chi khác, hãy vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời mà làm” (1 Côr. 10:31). Mỗi Cơ đốc nhân cần “biết” mình, để trình bày vấn đề này trước Chúa và cầu xin sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh. Quyết định như thế nào còn phụ thuộc vào quá khứ, thể trạng, và hoàn cảnh của từng người, vấn đề là phải “vì Chúa”. Trong khía cạnh này, các Cơ đốc nhân cũng nên tôn trọng quyết định của người khác, mà không rơi vào sự coi thường hoặc phê phán, và cãi lẫy với nhau (Rô-ma 14:1-4).
Không chỉ nghĩ đến bản thân, Cơ đốc nhân cần suy nghĩ đến việc quyết định của mình có ảnh hưởng như thế nào trên người khác: cả người đã tin Chúa lẫn người chưa tin Chúa.
Chúng ta cần nhạy cảm với rất nhiều anh em đã có những vấn đề với rượu trong quá khứ và một chút rượu có thể làm dịp vấp phạm đối với những anh em yêu dấu ấy. Phao-lô khuyên rằng: “Nhưng hãy giữ lấy, kẻo sự tự do mình làm dịp cho kẻ yếu đuối vấp phạm… Cho nên, nếu đồ ăn xui cho anh em tôi vấp phạm, thì tôi sẽ chẳng hề ăn thịt (huống hồ là rượu – NV), hầu cho khỏi làm dịp vấp phạm cho anh em tôi” (1 Côr. 8:9-13).
Với người chưa tin, chúng ta không được “ngăn trở Tin Lành của Đấng Christ chút nào” (1 Côr. 9:12). Cơ đốc nhân cần đặt câu hỏi: việc mình làm (hoặc không làm) đây có thúc đẩy Tin Lành của Chúa? Cơ đốc nhân cần suy xét đến tình hình xã hội đương thời và đưa ra sự lựa chọn thích hợp khi trả lời cho câu hỏi này. Sự kêu gọi “nên thánh” đòi hỏi trong nhiều trường hợp phải dám sống khác. “Ngày trước cũng đã đủ làm theo ý muốn người ngoại đạo rồi, mà ăn ở theo tà tịch, tư dục, say rượu, ăn uống quá độ, chơi bời và thờ hình tượng đáng gớm ghiếc. Họ thấy anh em chẳng cùng họ theo sự dâm dật bậy bạ ấy, thì họ lấy làm lạ và gièm chê.” (1 Phi-e-rơ 4:3-4) Vào cuối thế kỷ 19, William Booth, người thành lập phong trào Cứu Thế Quân đã chủ trương Cơ đốc nhân không uống rượu khi xét đến những hậu quả tai hại của rượu trên đời sống gia đình và xã hội tại Anh lúc bấy giờ. Thông tin về 3 tỷ lít bia mà người Việt đã uống trong năm 2013, cùng số liệu thống kê 60% số vụ tai nạn giao thông, 70% các vụ bạo hành gia đình tại nước ta có liên quan đến rượu thật đáng để cân nhắc. Một đề tài nghiên cứu của người không tin Chúa đánh giá về ảnh hưởng của Tin Lành trong đồng bào dân tộc H’mong tại một số tỉnh phía bắc5, dù không mấy khách quan, cũng đã phải nhận định: “Bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực thì đạo Tin Lành cũng có vai trò nhất định trong đời sống đồng bào… làm thay đổi nếp sống của đồng bào theo đạo… Những điều răn dạy mà đạo Tin Lành nêu ra… góp phần hạn chế những tiêu cực trong xã hội (của) đồng bào như… uống rượu, cờ bạc.”
Thiết tưởng cần bổ sung vai trò của Hội Thánh và thẩm quyền thuộc linh trong khía cạnh này. Câu Kinh thánh 1 Ti-mô-thê 5:23 có một số điểm thú vị. Cần lưu ý trong trường hợp này Ti-mô-thê có vẻ đã chọn việc “không uống”, nhưng vì vấn đề sức khỏe (không phải vì lệ thuộc vào rượu), Phao-lô (là người lãnh đạo thuộc linh thực lòng quan tâm đến lợi ích của Ti-mô-thê) khuyên Ti-mô-thê nên uống “một chút” rượu (lưu ý “một chút”, chứ không phải để say sưa). Mặc dù đây là vấn đề thuộc lương tâm và tự do cá nhân, nhưng trong thẩm quyền thuộc linh và lòng quan tâm chân thật, chúng ta cũng nên lưu ý đến việc cho (và nhận) lời khuyên lẫn nhau. Như vậy, Cơ đốc nhân cần suy xét câu hỏi: “Hội thánh địa phương của tôi có quan điểm như thế nào? Mục sư (hoặc những Cơ đốc nhân trưởng thành, biết và hiểu tôi) có lời khuyên gì?”
Không chỉ là uống hay không uống!
Như phát biểu của một nhân vật trong clip nêu trên, mặc dù biết tác hại của bia rượu, nhưng một số người vẫn uống vì bạn bè, vì quan hệ xã hội. “Nam vô tửu như kỳ vô phong”, người Việt có thói quen thách đố và chuốc rượu nhau quanh bàn nhậu. Có những trường hợp Cơ đốc nhân chúng ta uống rượu không phải vì thích hay vì suy xét những lý do như trên, mà đơn giản chỉ vì sức ép của đám đông, và rồi lại cảm thấy lương tâm cáo trách. Để không rơi vào hoàn cảnh đó, Cơ đốc nhân cần có sự xác quyết, là cái đến bởi sự xét mình trước Chúa, cũng như tìm hiểu kỹ lưỡng về vấn đề này. Khi đã có sự xác quyết, chúng ta sẽ dễ xử sự hơn. Nhiều lúc, vấn đề không phải ở ly rượu, mà ở việc có dám sống theo sự xác quyết của mình, và lo làm đẹp lòng Đức Chúa Trời hơn làm đẹp lòng loài người hay không (Ga-la-ti 1:10). Suy cho cùng, tính đàn ông đâu phải đo bằng tửu lượng mà bởi sống trách nhiệm; tình bạn thật đâu phải được chứng tỏ bằng rượu, mà qua những lúc khó khăn.
MS Nguyễn Đình Hưng
Nguồn:
(1) Xem phóng sự tại đây: http://www.youtube.com/watch?v=3xO1gFmiAFw)
(2) R.A. Baker (Ph.D. Ecclesiastical History). Wine in the Ancient World
(3) http://www.vietnamesebbc.org/co-doc-nhan-va-ruou/
(4) David Pawson – Christian and alcohol
(5) http://tai-lieu.com/tai-lieu/de-tai-su-du-nhap-va-anh-huong-cua-dao-tin-lanh-trong-dong-bao-dan-toc-hmong-o-mot-so-tinh-mien-nui-phia-bac-nuoc-ta-10424/#
Nguồn Loisusong.net
Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Lời mở đầu.
Sau khi Sa-tan phản loạn Đức Chúa Trời trong thế giới vô hình, Đức Chúa Trời đã trục xuất nó xuống chốn không trung. Từ đó Sa-tan trở thành kẻ đối nghịch với Đức Chúa Trời, chống phá Hội thánh và tôi con Chúa. Hiện nay Sa-tan là “vua cầm quyền chốn trung” và cũng là “vua chúa của thế gian mờ tối nầy” (Ê-phê-sô 2:2, 6:12). Sa-tan đã bành trướng thế lực tối tăm và tội ác của nó ra trên thế gian cách mạnh mẽ và đã bắt lấy vô số linh hồn người ta thờ lạy, làm nô lệ cho nó. Trong những ngày cuối cùng của thời kỳ ân điển khi Chúa Giêxu Christ gần tái lâm, Sa-tan và bè lũ qủy sứ của nó càng hoạt động mạnh mẽ hơn, vì nó “biết thì giờ của nó chẳng còn bao nhiêu” (Khải 12:12) .
Cách thức Sa-tan hoạt động và bành trướng quyền lực nó trên thế gian hầu hết là qua môi giới con người, như I Sa-mu-ên 28:1-25 chép về hoạt động của bà bóng ở Ên-đô-rơ và qua các phù thủy, đồng cốt. Câu chuyện Vua Sau-lơ cầu bà bóng ở Ên-đô-rơ là một câu chuyện gây nhiều tranh luận. Chúng ta cần nghiên cứu để hiểu rõ ý nghĩa đúng của lời Chúa trong phân đoạn Thánh kinh nầy; đồng thời cũng thấy được sự trá hình của Sa-tan tinh vi đến mức độ nào, hầu có thể giữ mình và giúp nhiều người thoát khỏi sự mê hoặc của nó.
I. BỐI CẢNH CHUYỆN SAU-LƠ CẦU BÀ BÓNG.
Có hai vấn đề cần bàn đến trong phần nầy:
1. Bối cảnh quốc gia I-sơ-ra-ên thời vua Sau-lơ.
Sau hơn 300 năm (1400–1100TC – Quan 11:26), dân I-sơ-ra-ên sống dưới thời các quan xét, “mỗi người đều làm theo ý mình lấy làm phải”. Chúa thương xót dấy lên một người vừa làm Quan xét và vừa là nhà Tiên kiến rất quyền năng, đầy ơn có tài trong lãnh vực lãnh đạo dân sự, đã sáng lập ra nền Quân chủ cho vương quốc I-sơ-ra-ên, người đó chính là Sa-mu-ên. Trải qua hằng ngàn năm, tuyển dân Chúa sống dưới chính thể thần minh, họ được Đức Chúa Trời trực tiếp cai trị qua các tiên tri, thầy tế lễ. Nhưng đến gần cuối đời tiên tri Sa-mu-ên, dân I-sơ-ra-ên cương quyết đòi cho có một vị vua cai trị họ giống như các dân tộc chung quanh! Lý do dân I-sơ-ra-ên đòi hỏi như vậy là vì:
– Sa-mu-ên đã già mà các con trai ông không xứng đáng lãnh đạo họ (I Sam 8:1-3,5).
– Họ thấy các dân chung quanh đều có vua. Nên cũng đua đòi cho có một vua cai trị họ! (I Sam 8:5).
Mặc dầu Sa-mu-ên hết sức giải thích cho dân sự hiểu sự đòi hỏi của họ sẽ đem lại hậu quả tai hại về sau và nó cũng làm cho Đức Chúa Trời buồn lòng nữa. Nhưng dân I-sơ-ra-ên cương quyết đòi hỏi nên Chúa an ủi Sa-mu-ên và bảo đầy tớ Ngài cứ làm theo ý họ muốn! Thế là Sa-mu-ên theo sự hướng dẫn của Chúa đi xức dầu cho Sau-lơ làm Đệ nhứt Quân vương cho Vương quốc I-sơ-ra-ên (I Sam 10:1).
2. Chân dung đệ nhứt Quân vương Sau-lơ.
Sau lơ là con trai của Kích, thuộc chi phái Bên-gia-min. Một người có thân hình cao lớn hơn cả mọi người (I Sam 10:22). Khi còn là một thanh niên trong gia đình, Sau-lơ rất khiêm nhường, nhịn nhục và biết vâng lời (I Sam 9:21,10:24). Rất có ý thức trách nhiệm và cũng có lòng bao dung (I Sam 10:27). Nhưng sau khi được xức dầu làm vua I-sơ-ra-ên, và nhứt là khi đã lên ngôi cai trị vương quốc I-sơ-ra-ên rồi thì lòng ông đổi khác mà trở nên kiêu căng, cứng cỏi, ngang ngạnh và bất nhân. Nhiều lần ông phạm tội được Chúa cảnh cáo nhưng không chịu ăn năn, cứ đi theo ý riêng nên Chúa Thánh Linh lìa bỏ và ác thần nhập vào khuấy khỏa ông (I Sam 16:14). Từ đó Sau-lơ gây nên bao cảnh đau thương cho Đa-vít và dân sự Chúa, mãi đến ngày Sau-lơ chết mới hết. Trước khi Sau-lơ chết, Chúa đã lìa bỏ ông và để ông đi đến chỗ cùng đường túng thế; ông bị quân Phi-li-tin tấn công, trong khi đó đầy tớ Chúa là tiên tri Sa-mu-ên đã qua đời không còn ai cầu hỏi ý Chúa giúp ông. Một người có thể giúp vua được là Đa-vít, nhưng vì tánh ganh tị nên Sau-lơ xem Đa-vít như kẻ thù và nhiều lần vua tìm cách giết Đa-vít. Do đó nhà vua không còn có lối thoát nào khác hơn là liều lĩnh đi cầu bà bóng ở Ên-đô-rơ, mà chính vua đã ra lệnh trừ diệt, để rồi phạm tội trọng trước mặt Chúa và phải nhận lấy kết cuộc bi thảm.
II. Ý NGHĨA CỦA CÂU CHUYỆN.
1. Ý nghĩa từ ngữ.
Trong phân đoạn Thánh kinh nầy có những từ chúng ta cần nghiên cứu.
– Cầu vong: (I Sam 28:7,8), là việc làm của những phù thủy dùng phép thuật để gọi hồn người chết về cho những người thân yêu gặp gỡ cầu hỏi hay trò chuyện. Thực ra không có hồn người chết nào có thể trở về được, đó chỉ là sự trá hình và giả hiệu của ma qủy thôi.
– Đồng cốt: (I Sam 28:3,9). Các phù thủy thường dùng một người làm cốt để gọi hồn người chết về nhập vào người làm cốt nói ra một số điều. Thực sự cũng chẳng có người chết nào trở về nhập vào người làm cốt ngoài ra ma qủy!
– Tà thuật: (I Sam 28:9): Dùng phép thuật của ma qủy làm nhiều việc, kể cả các dấu dị phép lạ. Công việc nầy có liên quan đến các trò như ma thuật, qủy thuật, phù phép..
Thánh kinh Tân ước có dùng một số từ ngữ để mô tả công việc nầy của Sa-tan như sau:
(1) Pharmakeús : nghĩa là kẻ tà thuật, phù phép (sorcerer), nó còn được dịch là “kẻ đầu độc” (Khải 21:8, Khải 22:15).
(2) Pheríerga : nghĩa là tà thuật, phép thuật, người làm những việc vô ích (Êsai 3:3,Công 19:19).
2. Dân Y-sơ-ra-ên với chuyện Sau-lơ cầu bà bóng.
Thánh kinh không nêu rõ thái độ của dân chúng và người đương thời đối với câu chuyện nầy. Nhưng xét về bối cảnh vẫn có một số người tin. Vì lúc bấy giờ có một số đông dân I-sơ-ra-ên bị ảnh hưởng bởi bái vật giáo của vùng Pales-tin mà Chúa đã cảnh cáo họ trước khi bước vào đất hứa (Phục 18:9-14), thế nhưng họ đã bị các dân xứ Ca-na-an cám dỗ nên làm theo những thói tục gớm ghiếc nầy. Hơn nữa tiên tri Sa-mu-ên đã qua đời nên không còn ai cầu vấn Đức Chúa Trời thay cho dân sự. Chính vua Sau-lơ cũng rơi vào tình trạng túng thế nên mới đi cầu bà bóng, mặc dầu chính vua là người ra lệnh trừ diệt những đồng cốt, tà thuật trong I-sơ-ra-ên (I Sam 28:3,9). Đáng buồn hơn là chính vua Sau-lơ lại tin vào điều đó. Tuy nhiên, vẫn còn một số đông người I-sơ-ra-ên khác trung thành với Chúa, giữ điều răn quyết không tin và không làm các công việc tà thuật. Thánh kinh cho biết thời vua A-háp, là thời kỳ đen tối nhứt của lịch sử Do Thái giáo vẫn còn 7.000 người trong dân sự không chịu thờ lạy Ba-anh và môi họ chưa hôn nó (I Vua 19:18). Dầu vậy, những gì xảy ra ở đây là một bài học, một lời cảnh cáo cho tôi con Chúa khi mất ánh sáng lời Chúa, không ở trong hiện diện Chúa, con người có thể rơi vào chỗ tối tăm tuyệt vọng, dễ bị Sa-tan dẫn dụ đi vào sự hư hỏng bại hoại.
3. Quan điểm của các nhà giải kinh.
Khi giải nghĩa đoạn Thánh kinh nầy, các nhà giải kinh có ba quan điểm:
(1) Quan điểm của những người tin câu chuyện Sau-lơ cầu bà bóng ở Ên-đô-rơ là thật, nghĩa là họ tin rằng Sa-mu-ên đã thật sự xuất hiện để nói chuyện với Sau-lơ theo sự cầu vong của bà bóng.
Trong phần chú thích và giải nghĩa sách I Sa-mu-ên đoạn 28 của một Tạp chí Cơ Đốc đã giải thích: “Đức Chúa Trời nghiêm cấm dân I-sơ-ra-ên liên hệ tới việc bói toán, thầy phù thủy, thầy pháp, kẻ cầu đồng cốt, kẻ thuật số, hoặc kẻ cầu vong” (Phục 18:9-14). “Những kẻ làm thầy pháp sẽ bị xử tử” (Xuất 22:18,19). Tuy nhiên, trong phần giải thích việc Sa-mu-ên xuất hiện thì lại giải thích: “Bà bóng không gọi Sa-mu-ên lên bằng thuật lừa đảo hay bởi quyền lực của Sa-tan; Đức Chúa Trời đem Sa-mu-ên trở lại để báo cho Sau-lơ những lời tiên đoán liên quan tới số phận người, một sứ điệp Sau-lơ đã biết”. Sau đó có lời khuyến cáo: “Đó không phải là cách biện minh cho nổ lực liên lạc với người chết hoặc thông công với các tà linh thuộc về quá khứ. Đức Chúa Trời chống cự mọi thói tục như vậy”
(2) Quan điểm thứ hai của những người dè dặt bảo rằng họ không tin mà cũng không phủ nhận, vì chưa xác định được sự thật của câu chuyện. Ông Henry H.Halley nhận định về câu chuyện Sau-lơ cầu bà bóng là một “bài tường thuật đơn sơ và thành thật dường như ngụ ý rằng thần linh của Sa-mu-ên thật đã hiện về. Tuy nhiên, người ta có ý kiến khác nhau, kẻ cho rằng sự hiện hồn đó là thật, kẻ cho là giả”. Thánh kinh Khảo học có lời chú giải về I Sa-mu-ên đoạn 28 như sau: “Có thể hiểu sự việc nầy bằng mấy cách khác nhau: (a) Thượng Đế cho phép linh của Sa-mu-ên hiện lên cho bà (bóng) thấy. (b) Người đàn bà tiếp xúc với thần dữ hay ác linh trong hình dạng Sa-mu-ên do đó bà bị gạt hoặc bị kiểm soát (c) Bằng cách dùng năng lực bán tâm lý như cảm từ xa hoặc khả năng thấy được cái vô hình”
(3) Quan điểm thứ ba của nhiều nhà giải kinh cho rằng câu chuyện Sau-lơ cầu bà bóng ở Ên-đô-rơ chỉ là trò lừa bịp, trá hình của Sa-tan để làm hại vua Sau-lơ, gia đình vua và nhiều con cái Chúa chưa hiểu được bản chất xảo quyệt của nó thôi! Trong quyển New Commentary có lời bình giải về câu chuyện Sau-lơ cầu bà bóng rất chính xác như sau: “Điều chắc chắn trong đoạn Thánh kinh nầy là Đức Chúa Trời không tán đồng những hoạt động của các đồng bóng. Sự hướng dẫn của Chúa không bao giờ bị lừa gạt bởi những hoạt động của chúng”.
4. Cách hiểu đúng câu chuyện.
Trước hết chúng ta tin rằng Chúa làm được tất cả mọi sự, nhưng Ngài không bao giờ làm điều gì mâu thuẫn với chính Ngài. Sự kiện Sa-mu-ên xuất hiện để nói chuyện với Sau-lơ là việc Đức Chúa Trời có thể làm được. Nhưng xét về ý nghĩa và nội dung câu chuyện, thì rất khó tin rằng Đức Chúa Trời cho phép tiên tri Sa-mu-ên xuất hiện theo sự cầu vong của bà bóng. Nếu như vậy té ra Đức Chúa Trời chấp nhận việc đồng cốt và tà thuật sao? Còn giải thích rằng Sa-mu-ên hiện lên là do quyền phép Đức Chúa Trời chứ không do bà bóng thì càng khó chấp nhận, nhứt là Sa-mu-ên xuất hiện trong thời điểm bà bóng cầu vong. Xin nhớ rằng bản chất thánh lành của Đức Chúa Trời không bao giờ thay đổi. Hơn nữa không có ai đã qua đời mà còn có thể trở lại trần gian để phán dạy điều gì cho người sống. Điều nầy được xác minh qua thí dụ Chúa Giêxu kể trong Luca 16:19-31.
Trong Thánh kinh có ghi lại trường hợp Môi-se và Ê-li hiện ra với Chúa Giêxu trên núi hóa hình (Mat 17). Nhưng đây là trường hợp đặc biệt Chúa muốn mạc khải một vài chân lý có liên quan đến mô hình biến hóa hai hạng Cơ Đốc nhân trong ngày Chúa tái lâm, chứ không phải họ trở lại trần gian để nói điều gì liên quan đến sự cứu rỗi hay một sứ mạng gì đặc biệt. Do đó họ chỉ xuất hiện để gặp gỡ Chúa Giêxu mà không hề nói một lời nào với ba vị sứ đồ đang chứng kiến. Vì những gì cần thiết cho con người thì Chúa đã phán dạy qua Thánh kinh rồi!
Ngoài ra nếu phân tích văn mạch Thánh kinh thì chúng ta sẽ thấy rõ hơn.
* Văn mạch trực tiếp:
I Sam 28:3 “Sau-lơ trừ diệt khỏi xứ những đồng cốt và những thầy bói” và câu 9 khẳng định lại một lần nữa.
* Văn mạch gián tiếp:
Lêv 19:31, “Các ngươi chớ cầu đồng cốt hay là thầy bói; chớ hỏi chúng nó, e vì chúng nó mà các ngươi phải bị ô uế: Ta Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi”.
Lêv 20:27 “Khi nào một người nam hay nữ làm đồng cốt hay là bói khoa, thì sẽ bị xử tử, người ta sẽ ném đá chúng nó: huyết chúng nó sẽ đổ lại trên mình chúng nó”. Có thể xem thêm ở Phục 18:9-14 và Êsai 18:19.
* Văn mạch toàn diện:
Khải 21:8 “Còn những kẻ hèn nhát, kẻ chẳng tin, kẻ đáng gớm ghét, kẻ giết người, kẻ dâm loạn, kẻ phù phép..”. Chữ phù phép ở đây có nghĩa là tà thuật.
Khải 22:15 “Những loài chó, những thuật sĩ.”. Chữ thuật sĩ (Phármakos) có nghĩa là kẻ tà thuật, kẻ đầu độc.
Ngoài ra cũng có thể xem thêm một số câu khác nữa như Khải 9:21,18:23, Công 8:8,9.. Trong Gal 5:20 có nói đến “Những kẻ thờ hình tượng, phù phép”. Chữ phù phép trong nguyên văn là Mageúo có nghĩa là qủy thuật, tà thuật, là những điều mà cả Thánh kinh Cựu và Tân ước đều nghiêm cấm.
Như vậy, xét về văn mạch lẫn những gì mà lời Chúa mạc khải trong Thánh kinh, việc vua Sau-lơ cầu bà bóng ở Ên-đô-rơ là một trò lừa đảo vô cùng tinh vi của Sa-tan, đúng như bản chất xảo trá quỷ quyệt và gian ác của nó. Sa-tan đã dùng tay bà bóng lừa phỉnh vua Sau-lơ, và nó đang tiếp tục lừa phỉnh vô số người trong nhân loại ngày nay qua các phù thủy, đồng cốt và tà thuật y như vậy, khiến nhiều người chết cả thể xác lẫn linh hồn hết sức đáng thương. IICôr 11:14 chép: “Nào có lạ gì, chính qủy Sa-tan mạo làm thiên sứ sáng láng”
Chúng ta tin rằng Đức Chúa Trời không tự chống lại chính mình Ngài, khi chỗ nầy thì nghiêm cấm còn chỗ kia lại cho phép! Nếu Chúa muốn phán với Sau-lơ thì không có gì khó cả, Ngài có thể mở miệng một người trong dân sự làm việc đó, thậm chí Chúa có thể dùng cả đến thú vật nữa, như Ngài đã từng mở miệng con lừa nói tiếng người với tiên tri Ba-la-am (Dân 22:28-33), nhưng vì Ngài đã lìa bỏ vua Sau-lơ nên Ngài im lặng.
Có người căn cứ vào nội dung cuộc đối thoại giữa nhân vật Sa-mu-ên với vua Sau-lơ mà tin rằng đó là chuyện thật. Nhưng xét kỹ không có gì khó hiểu ở đây. Phần lớn những điều nói đến trong cuộc đối thoại, Sa-mu-ên đã nói với vua Sau-lơ ngay trong lúc đầy tớ Chúa còn sống. Chỉ có một điều mới là việc vua Sau-lơ và các con trai vua sẽ chết trong chiến trận, song về điều mới nầy cũng dễ hiểu thôi. Vì vua Sau-lơ đang nằm trong tay Sa-tan, nó muốn giết vua lúc nào chẳng được.
Một chuyện thật đã xảy ra cho một người lính Mỹ chiến đấu tại Việt Nam trong thời chiến tranh trước 1975. Người lính nầy có tên là Dwight, con của bà Reynolds ở tiểu bang Pensylvania. Từ khi Dwight tham chiến tại Việt Nam, anh thường xuyên viết thư cho mẹ. Nhưng bỗng dưng suốt nhiều tuần lễ bà không nhận được thư nào. Bà đâm ra bối rối và hết sức lo lắng. Một sáng kia, có chiếc xe của quân đội Hoa kỳ đứng trước cửa, họ trao cho bà bức điện để vừa thông báo mà cũng vừa phân ưu về việc con bà bị mất tích và có khả năng đã chết tại Việt Nam. Bà khóc òa và đau khổ vô cùng. Bà nói: ‘Chúa ơi tại sao con con chết? Con luôn cầu xin Chúa gìn giữ nó mà bây giờ nó đã chết là nghĩa làm sao?’
Ít ngày sau, có một người bạn đến nhà mời bà đi dự cuộc cầu hồn các lính Mỹ chết tại Việt Nam và người bạn đó hứa rằng bà có thể liên lạc với người chết được! Bà nhớ lời Chúa dạy trong sách Truyền đạo 9:5,6: “Kẻ sống biết mình sẽ chết, nhưng kẻ chết chẳng biết chi hết.. Sự yêu, sự ghét, sự ganh gổ của họ thảy đều tiêu mất từ lâu, họ chẳng hề có phần nào về mọi điều làm ra dưới mặt trời”. Vì cớ đó bà phản đối và từ chối không đi.
Một tuần lễ sau người bạn ấy trở lại và nói rằng hôm qua chúng tôi họp nhau và đã nói chuyện với những người thân chết trận tại Việt Nam. Con trai bà là Dwight có hiện về, nó trách tại sao bà không đến gặp nó, nó buồn tủi lắm. Từ đó bà cảm thấy thương nhớ con và ước ao được nói chuyện với con.
Tối thứ ba tuần sau, trong buổi cầu hồn để gặp những người chết, vì quá thương con, bà Reynolds cũng đến ngồi trên một chiếc ghế dài dành cho người muốn tiếp xúc với linh hồn người chết. Chung quanh bà có năm sáu người đàn bà cùng chờ để linh hiện về. Chốc lát sau, con của bà Reynolds hiện về thật. Rõ ràng là con của bà, hình ảnh của nó không thay đổi, giọng nói của nó cũng y như vậy. Bà vui mừng và nói chuyện với con gần một tiếng đồng hồ. Rồi mẹ con từ giả và hẹn tối thứ ba tuần sau. Ngày hôm sau bà đến gặp Mục sư và cho ông biết bà đã nói chuyện với đứa con trai đã chết của bà. Bà cho rằng Kinh thánh sai vì nói rằng người chết không hiện về được. Bà xin Mục sư cho bà rút tên ra khỏi Hội thánh.
Sáu tháng sau, vào một buổi sáng thứ sáu nọ, có tiếng chuông reo, bà mở cửa ra thấy con trai bà đang đứng trước cửa. Anh ta ôm chầm mẹ vui mừng cảm tạ Chúa. Bà ngạc nhiên hỏi sao con ở đây giờ nầy, chúng ta hẹn vào mỗi tối thứ ba như thường lệ cơ mà! Người con chẳng hiểu gì, anh ta chỉ nói với mẹ rằng con mới được phép về nhà. Lúc bấy giờ bà mới nhận ra con mình còn sống.
Phối kiểm lại bà mới biết rằng tin con bà chết là nhầm lẫn. Anh ta chỉ bị mất tích trong khi bị thương nặng, sau đó đồng đội đã tìm lại được và đưa vào bịnh viện dã chiến để chữa trị. Nên lâu ngày anh không viết thư cho mẹ được. Bấy giờ bà Reynolds biết mình đã mắc lừa ma qủy qua trò bịp cầu hồn của các đồng bóng, bà hết sức ăn năn với Chúa. Qua đó chúng ta nhận biết rằng các cuộc cầu hồn, đồng bóng, tà thuật v.v.. chính là các trò lừa bịp tài tình của Satan trong thế giới của các thầy pháp, các phù thủy thật là đáng sợ.
III. BÀI HỌC TỪ CÂU CHUYỆN SAU-LƠ CẦU BÀ BÓNG.
Từ câu chuyện nầy chúng ta rút ra được một số bài học như sau:
1. Khi con người không có lời Chúa soi sáng thì rất dễ bị Sa-tan dẫn dụ đi vào con đường tối tăm tội lỗi. Dầu cho người đó là ai, ở giai tầng nào, trình độ nào cũng có thể bị Sa-tan mê hoặc và dẫn dụ.
2. Sa-tan là kẻ giả hình rất tài tình, nó là cha của kẻ nói dối đã lừa hầu hết nhân loại bởi những trò ma thuật, phù phép và đồng bóng. Thậm chí nó còn lừa cả Cơ Đốc nhân nữa. Con cái Chúa phải hết sức đề cao cảnh giác và luôn sống trong ánh sáng lời Chúa để kịp thời phát hiện những trò lừa bịp của Sa-tan.
3. Hầu hết những người mà Sa-tan lừa phỉnh đều đi đến kết cuộc bi thảm. Sa-tan không có điều gì tốt lành và cũng chẳng bao giờ có lòng thương xót. Những người mắc lừa Sa-tan sẽ sớm kết thúc cuộc sống để đi đến chỗ đồng số phận với nó ở trong nơi khổ hình đời đời!
4. Cơ Đốc nhân phải tỉnh táo giữ mình, biết cách sử dụng các loại khí giới của Đức Chúa Trời trong Ê-phê-sô 6:11-18 để đánh trận thuộc linh. Cũng nhờ huyết và thập tự giá Chúa Giêxu chiến đấu chống trả ma qủy (Khải 12:11). “Hãy phục Đức Chúa Trời, hãy chống trả ma qủy thì nó sẽ lánh xa anh em” (Gia cơ 4:7).
Kết luận.
Nói về những hình thức hoạt động của Sa-tan ma qủy trong thế giới ngày nay thì không thể nào nói hết được. Nhưng xem ra sự trá hình và lừa phỉnh của Sa-tan ma qủy trong các cuộc đồng cốt, tà thuật và phù phép quả là một trong các hình thức lừa phỉnh hiệu quả nhất của nó hiện nay. Không chỉ con người trong các nước Đông phương bị ảnh hưởng nặng nề bởi bái vật giáo nên sinh ra mê tín dị đoan, bói khoa tướng số, cầu cơ, lên đồng.. mà tại các nước Tây phương tiên tiến, sự hoạt động của Sa-tan trong lãnh vực nầy cũng không thua kém. Vì vậy, có thể nói hầu hết những người không Chúa đều đã bị Sa-tan lừa phỉnh bởi hình thức nầy. Cơ Đốc nhân cần nổ lực truyền bá Phúc Âm để mở mắt những người đã và đang mắc lừa ma qủy để sớm giải cứu đưa họ về cùng Chúa.
Doulos
SÁCH THAM KHẢO
1. Thánh kinh khảo học.
2. Francis Frangipane, “Ba chiến trường thuộc linh”
3. Theodore Epp, “Làm thế nào đánh bại Satan?”
4. Chú giải Samuên – VPNS 1998.
5. W. Macdonald, Giải nghĩa Kinh Thánh Cựu – Tân ước.
6. Kenneth Hagin “Hội thánh đắc thắng” – USA 1993
7. Henry H. Halley “Thánh kinh lược khảo” -Sài gòn 1960.
8. “New Bible Commentary” – USA 1995.
9. Adam Clarke, “Clarke’s Commentary” – Abingdon Press.
10. Walter Martin, “The Kingdom of the Cults” , USA 1992.
Nguồn Hoithanhtinlanhvietnam.org
Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Một trong những câu chuyện đó là câu chuyện người gieo giống được Phúc Âm ghi lại như sau:
Người gieo giống đi ra để gieo giống mình. Khi vải giống, một phần giống rơi ra dọc đường, bị giày đạp và chim trời xuống ăn hết. Một phần khác rơi ra nơi đất đá sỏi, khi mới mọc lên, liền héo đi, vì không có hơi ẩm. Một phần khác rơi vào bụi gai, gai mọc lên với hột giống, làm cho nghẹt ngòi. Lại có một phần khác rơi xuống nơi đất tốt, thì mọc lên, và kết quả, một thành trăm (Phúc Âm Lu-ca 8:5-8a).
Sau khi kể câu chuyện trên, Chúa Giê-xu đã giải thích ý nghĩa câu chuyện như sau:
Hột giống là đạo Ðức Chúa Trời. Phần rơi ra dọc đường, là những kẻ nghe đạo; nhưng về sau ma quỉ đến, cướp lấy đạo từ trong lòng họ, e rằng họ tin mà được cứu chăng. Phần rơi ra đất đá sỏi là kẻ nghe đạo, bèn vui mừng chịu lấy; nhưng họ không có rễ, chỉ tin tạm mà thôi; nên khi sự thử thách đến, thì họ tháo lui. Phần rơi vào bụi gai, là những kẻ đã nghe đạo, nhưng rồi đi, để cho sự lo lắng, giàu sang, sung sướng đời nầy làm cho đạo phải nghẹt ngòi, đến nỗi không sanh trái nào được chín. Song phần rơi vào nơi đất tốt, là kẻ có lấy lòng thật thà tử tế nghe đạo, gìn giữ và kết quả một cách bền lòng (Phúc Âm Lu-ca 8:11-15).
Câu chuyện Phúc Âm quý vị nghe hay đọc hằng tuần trên mạng lưới nầy cũng không ngoài mục đích truyền lại những lời dạy của Chúa. Những lời dạy nầy vẫn thiết thực cho chúng ta hôm nay. Dụ ngôn của Chúa Giê-xu nói về bốn thứ đất, tượng trưng cho bốn thái độ hay bốn phản ứng của con người khi nghe Lời của Chúa vì Chúa Giê-xu ví sánh hột giống với đạo của Chúa hay Lời Chúa. Lời của Chúa là lời có sự sống giống như hạt giống nhưng dù là hạt giống có sự sống, sự sống đó chỉ có thể sinh sôi nẩy nở trong những điều kiện thuận lợi mà thôi. Nói khác đi, Lời của Chúa dù có quyền năng, đáp ứng của con người mới là yếu tố quyết định. Chúng tôi gieo Lời Chúa mỗi tuần trên đài phát thanh nầy, nhưng Lời của Chúa đến với quý vị có thể giống như hạt giống “rơi ra dọc đường, bị giày đạp và chim trời xuống ăn hết.” Chúa Giê-xu so sánh điều đó với “ma quỷ đến cướp lấy đạo từ trong lòng.” Lý do là vì “e rằng họ tin mà được cứu chăng.” Ma quỷ không muốn ai được cứu cả, vì vậy nó dùng mọi phương cách để cướp lấy Lời Chúa được gieo trong lòng người.
Lời Chúa đến với chúng ta, nhưng chúng ta có thể khước từ vì những lý do sau:
1. Vì sợ
Con người chúng ta có nhiều cái sợ. Có những cái sợ hữu lý nhưng cũng có những cái sợ vô lý. Có thể chúng ta sợ rằng nếu chúng ta nghe Lời Chúa và đặt lòng tin nới Chúa chúng ta sẽ có những mất mát. Một trong những hiểu lầm của nhiều người là cho rằng khi tin Chúa, chúng ta bỏ ông bỏ bà và không còn hiếu kính cha mẹ nữa. Ðây là một trong những hiểu lầm đáng tiếc và vô cùng tai hại. Ðạo của Chúa bao giờ cũng nhấn mạnh đến chữ hiếu và không bao giờ nói đến việc bỏ ông bỏ bà. Niềm tin nơi Chúa Giê-xu là niềm tin nơi chân thần duy nhất vì Chúa là Ðấng tạo dựng muôn vật mọi loài, Ngài là Ðức Chúa Trời duy nhất. Chỉ một mình Ngài đáng cho chúng ta tôn thờ. Chúng ta thờ cha mẹ, trên cha mẹ là ông bà và trên ông bà, nếu chúng ta cứ tiếp tục tính lên nữa, thì Ðấng cao cả nhất là Ðức Chúa Trời mà chúng ta phải tôn thờ. Tôn thờ Ðức Chúa Trời là tôn thờ Ðấng cao cả nhất chứ không phải bỏ qua ông bà cha mẹ chúng ta. Ðối với ông bà cha mẹ, Lời của Chúa dạy thật rõ, “Hãy hiếu kính cha mẹ ngươi.” Ðây là điều luật đầu tiên trong mối quan hệ giữa người với người, điều nầy chứng tỏ Chúa nhấn mạnh về bổn phận của con cái đối với cha mẹ chứ không bảo chúng ta từ bỏ cha mẹ. Ðiều Chúa dạy chúng ta là chúng ta chỉ thờ một mình Chúa chứ không thể thờ ai khác, vì Chúa mới là Ðấng cao cả, đáng cho chúng ta tôn thờ. Vì vậy chúng ta không phải sợ tin Chúa là bỏ ông bỏ bà.
Có người thì lại sợ rằng khi tin nhận Chúa mình sẽ bị ràng buộc, không còn được tự do, có những sinh hoạt tôn giáo mình phải tham gia hoặc có những điều mình không còn được làm nữa. Ðó thật là một suy nghĩ sai lầm vì chính trong Chúa Giê-xu chúng ta được giải thoát, được giải phóng, không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Chúa Giê-xu tuyên bố, “Ai phạm tội là nô lệ của tội lỗi” và khi Chúa giải phóng chúng ta, chúng ta sẽ thật được tự do. Chúng ta được tự do vì không còn là nô lệ cho những thói hư tật xấu nữa, chúng ta được tự do vì không bị ràng buộc với những luật lệ và lễ nghi tôn giáo. Tất cả những gì chúng ta làm là làm vì lòng yêu Chúa. Thánh Kinh cho biết chúng ta có thể đến trực tiếp với Chúa qua lời cầu nguyện, không phải qua một trung gian nào. Và Thánh Kinh là Lời của Chúa là kim chỉ nam hướng dẫn cuộc đời chúng ta. Chúng ta tìm thấy mọi nguyên tắc sống, mọi nguyên tắc xử sự ở đời qua lời dạy của Chúa. Sở dĩ chúng ta có những sinh hoạt với các anh chị em tín hữu khác là để chúng ta giúp nhau gây dựng đời sống tâm linh tăng trưởng vì chúng ta cần có nhau để sống. Thiên Chúa cứu chúng ta từng người một nhưng Ngài cứu chúng ta vào trong cộng đồng đức tin, cộng đồng của những người cùng một niềm tin để gây dựng và dìu dắt nhau trên đường đời. Hội Thánh của Chúa được mô tả là thân thể mầu nhiệm của Chúa, chúng ta là những phần khác nhau của thân thể mầu nhiệm đó, tùy thuộc vào nhau, cần có nhau để sống. Mọi sinh hoạt của hội thánh Chúa không đi ra ngoài mục đích đó vì vậy chúng ta không sợ bị ràng buộc khi đặt lòng tin nơi Chúa. Thật ra, nếu gọi đó là ràng buộc đi nữa thì đó thật là những ràng buộc cần thiết và ích lợi mà ta không phải sợ.
Lời Chúa đến với chúng ta mà nếu chúng ta sợ, không tiếp nhận, lời ấy sẽ giống như hạt giống rơi ra dọc đường, bị giày đạp và chim trời xuống ăn hết.
2. Vì kinh nghiệm đau thuơng
Cũng có thể chúng ta không tiếp nhận vì sợ nhưng vì một vài kinh nghiệm đau thương nào đó trong quá khứ. Có thể chúng ta đã thấy có người xưng mình là người tin Chúa nhưng nếp sống đã không phản ánh đúng với niềm tin, khiến cho chúng ta nghi ngờ. Cũng có thể cuộc đời chúng ta đã trải qua nhiều nỗi đau thương và chúng ta không thấy được tình yêu của Chúa trong những đau thương đó. Chúng ta không muốn nghe, không muốn tiếp nhận chỉ vì những kinh nghiệm của quá khứ. Chúng ta cần biết rằng niềm tin là vấn đề riêng tư giữa chúng ta với Chúa. Trong ngày cuối cùng, khi đứng trước tòa án của Chúa, chúng ta không thể đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho người chung quanh hay cho bất cứ một yếu tố nào bởi vì mỗi chúng ta phải chịu trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa về những gì chúng ta đã nghe biết về Ngài.
3. Vì kiêu hãnh
Cũng có thể chúng ta đã khước từ Lời Chúa, bỏ ra ngoài tai như hạt giống rơi ra dọc đường vì một niềm kiêu hãnh nào đó trong đáy lòng. Chúng ta nghĩ rằng mình có thể tự cứu lấy mình. Chúng ta cho rằng phải đặt đức tin nơi Ðấng Chí Cao là hèn yếu. Suy luận của con người có thể đúng nhưng khi so với tiêu chuẩn của Thiên Chúa, chúng ta sẽ thấy rằng không một cố gắng nào của con người có thể đạt được đòi hỏi của Thiên Chúa vì Ngài là Ðấng chí thánh.
Tôi vừa nói với Bạn về một vài yếu tố có thể đã khiến Bạn khước từ hay bỏ ra ngoài tai Phúc Âm cứu rỗi của Chúa Giê-xu. Tôi mời Bạn suy nghĩ lại, đừng để cho Lời của Chúa đến với Bạn như hạt giống rơi xuống đường, chẳng đem lại lợi ích gì. Trong những tuần tới tôi sẽ tiếp tục nói về dụ ngôn người gieo giống của Chúa Giê-xu. Nhưng trong tuần nầy, Lời của Chúa đã một lần được gieo ra, Bạn đáp ứng như thế nào?
Mục sư Nguyễn Thỉ
Chương Trình Phát Thanh Tin Lành
Nguồn Tinlanhbayarea.org
Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Trong câu chuyện Phúc Âm hôm nay tôi muốn trình bày với Bạn về thuật xử thế này. Đây không phải là một bài học về thuật xử thế nhưng là Lời Chúa dạy về việc tìm đâu ra khôn ngoan để xử sự ở đời. Trong câu chuyện lần trước, chúng ta nói về việc đương đầu với thử thách khó khăn trong đời và Lời Chúa dạy chúng ta hãy coi thử thách là điều vui mừng vì nó sẽ đem lại cho ta tính kiên trì, nhẫn nại, giúp ta nên người. Tiếp theo lời dạy về đương đầu với thử thách là lời dạy về khôn ngoan hay làm thế nào để có khôn ngoan để xử sự ở đời. Đối với vấn đề nầy, Lời Chúa dạy: “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan thì hãy cầu xin Thiên Chúa, Người sẽ ban cho. Vì Thiên Chúa ban cho mọi người cách rộng rãi, không quở trách.”
Đây là một lời dạy rất đơn giản nhưng rất quan trọng và cần thiết. Có lẽ khi mới nghe, chúng ta thấy lời dạy nầy có vẻ như quá thụ động vì nếu chỉ cần cầu xin Thiên Chúa thì nói làm gì nữa! Chúng ta cần kiên nhẫn phân tích vấn đề để thấy rõ hơn. Trước hết chúng ta cần nhớ rằng đây là câu chuyện Phúc Âm tức là nói đến vấn đề tâm linh, trên bình diện tâm linh. Ở đây nói đến tiêu chuẩn của Thiên Chúa, không phải tiêu chuẩn của con người. Và dù cho đây là vấn đề tâm linh và tiêu chuẩn của Thiên Chúa, vấn đề áp dụng rất thực tế vào đời sống.
Trước hết chúng ta cần nhìn vào định nghĩa của Thánh Kinh về vấn đề khôn ngoan. Đối với đời, đối với trần gian khi nói đến khôn ngoan người ta nói đến các học giả, những người có bằng cấp, những người có tỉ lệ thông minh gọi tắt là IQ cao. Nhưng đó chưa phải là khôn ngoan thật. Khôn ngoan thật, theo định nghĩa của Thánh Kinh là biết xử sự ở đời. Khôn ngoan thật không phải là ta biết bao nhiêu nhưng là ta áp dụng những hiểu biết của mình vào đời sống như thế nào. Chính vì vậy mà chúng ta thấy rằng trong vấn đề việc làm người ta đòi hỏi kinh nghiệm. Người có bằng cấp cao nhưng thiếu kinh nghiệm thì chưa chắc đã làm việc hữu hiệu. Nói đến khôn ngoan là nói đến sử xự ở đời.
Bạn xử sự như thế nào đối với vợ, với chồng, với con cái, với cha mẹ, với bạn bè, với người cùng làm việc với mình. Việc xử sự mỗi ngày trong đời cho thấy chúng ta có phải là người khôn ngoan thật hay không. Chính vì vậy mà Lời Chúa dạy, “Nếu ai trong anh em thiếu đức khôn ngoan thì hãy cầu xin Thiên Chúa.” Khôn ngoan xử sự ở đời không phải là điều dễ, vì vậy chúng ta cần đến khôn ngoan thiên thượng hay khôn ngoan đến từ trời, từ Thiên Chúa.
Vua Sa-lô-môn của Do-thái được mệnh danh là con người khôn ngoan nhất từ trước đến nay đã nói, “Kính sợ Chúa Hằng Hữu ấy là khởi đầu sự khôn ngoan, nhìn biết Đấng Thánh đó là sự thông sáng.” Nhiều người có thể sẽ cho rằng đây là một định nghĩa đã lỗi thời vì chúng ta đang sống trong thế kỷ mà nền văn minh nhân loại đã đạt đến mức cực thịnh, con người đâu cần gì đến Thiên Chúa nữa! Nghĩ như vậy là sai trên hai bình diện sau đây.
Trước hết, chúng ta phải biết rằng mọi khôn ngoan, thông sáng của con người đều đến từ Thiên Chúa, là Đấng Tạo Hóa đã tạo dựng nên muôn vật mọi loài trong đó có con người của chúng ta. Đầu óc hay trí óc khôn ngoan mà chúng ta có không đến từ chúng ta nhưng từ Đấng Tạo Hóa. Có trí óc khôn ngoan mà phủ nhận Đấng ban cho mình trí óc khôn ngoan đó thì không thật sự khôn ngoan tí nào. Đó là nói theo lý trí. Trên phương diện đạo đức, cái khôn ngoan của con người mà không có đạo đức đi kèm, nghĩa là nếu không kính sợ Thiên Chúa là điều kinh khủng vô cùng. Thảm cảnh của các trận thế chiến, các vụ thảm sát ngay trong thế kỷ của chúng ta cho thấy khôn ngoan mà không có đạo đức đi kèm là điều đáng sợ vô cùng.
Vì vậy, trước hết chúng ta phải trở lại với nguồn của mọi khôn ngoan là Thiên Chúa. Chính vì vậy mà lời dạy nghe như rất đơn giản là cầu xin Thiên Chúa để có khôn ngoan là điều quan trọng vô cùng. Cầu xin Thiên Chúa để có khôn ngoan là ý thức giới hạn của mình và cũng ý thức được đâu là nguồn của khôn ngoan thật. Đức khôn ngoan Thiên Chúa ban cho con người được Thánh Kinh mô tả là thanh sạch, hòa thuận, tiết độ, nhu mì, đầy dẫy lòng thương xót và bông trái lành, không hai lòng và giả hình.
Đối với đời, người khôn là người biết mưu mẹo, đường lối, biết làm thế nào để vượt thắng người khác, biết sống cho mình, biết hưởng thụ, đó là khôn. Nhưng đó không phải là khôn theo tiêu chuẩn hay đường lối của Thiên Chúa. Lời Chúa dạy chúng ta khôn ngoan là sống đời thanh sạch, là sống hòa thuận, hài hòa với người chung quanh, là biết tự chế, là mềm dẽo, nhún nhường, là đầy tình thương, là thể hiện ra trong việc làm tốt, là bỏ đi thành kiến, thiên vị và giả tạo Tất cả nói lên một đời sống đạo đức trọn vẹn, hay nói khác đi người khôn ngoan là người đạo đức hay cũng có thể nói ngược lại người đạo đức là người khôn ngoan thật. Khôn ngoan hay đạo đức nầy không đến từ con người vì chính chúng ta không thể sống như vậy. Do đó Lời Chúa dạy chúng ta, bảo chúng ta, “Hãy cầu xin!” Cầu xin không nói lên một thái độ ương hèn hay ỷ lại nhưng cho thấy một tấm lòng nương cậy trọn vẹn hay nói khác đi là sống với niềm tin.
Thánh Kinh có một lời dạy đặc biệt mà tôi ước mong Bạn sẽ ghi nhớ. Lời dạy đó như sau: “Chúa Hằng Hữu phán như vầy: Người khôn chớ khoe sự khôn mình, người mạnh chớ khoe sự mạnh mình, người giàu chớ khoe sự giàu mình, nhưng người nào khoe hãy khoe về trí khôn mình biết Ta là Chúa Hằng Hữu, là Đấng làm ra sự thương xót, chính trực và công bình trên đất vì Ta ưa thích những điều ấy, Chúa Hằng Hữu phán vậy.”
Bạn thân mến, khôn ngoan thật là có ý thức về Đấng Tạo Hóa. Đây không phải là một ý thức chỉ có tính cách luận lý nhưng là hiểu biết trong một mối quan hệ. Chữ “biết” trong ý nghĩa của Thánh Kinh là biết như vợ biết chồng, cha biết con, anh em bạn hữu thân tình biết nhau. Thiên Chúa muốn chúng ta biết Ngài, hay nói đúng hơn có kinh nghiệm về Ngài tương tự như vậy. Và người biết Chúa như thế mới là người khôn ngoan thật. Chúa bảo chúng ta phải hiểu biết Chúa là Đấng làm ra sự thương xót, chính trực và công bình trên đất. Chúng ta sẽ không thể nào biết Chúa như vậy cho đến khi nào chúng ta đặt lòng tin trọn vẹn nơi Ngài. Niềm tin đó sẽ đưa chúng ta vào sự hiểu biết đầy trọn hay kinh nghiệm đầy trọn với Thiên Chúa.
Phúc Âm là tin mừng và tin mừng đó là Thiên Chúa thần linh, vô hình, toàn năng, vô hạn, cao cả đã bằng lòng đến với con người trong thân xác của con người là Chúa Giê-xu. Ngài đã sống với con người, thông cảm với kiếp người và cuối cùng mang tội lỗi của loài người trên thập giá, chịu chết đền tội cho Bạn và tôi. Ngài đã đến quá gần với loài người, đụng đến con người và kêu gọi con người quay trở lại với Thiên Chúa, nhìn biết Ngài là Thiên Chúa toàn năng đầy tình thương. Khi chúng ta sống với ý thức đó, đúng hơn, với kinh nghiệm đó, ta sẽ kinh nghiệm một đời sống mới, một sự sống mới trong tâm hồn và chúng ta sẽ tự nhiên nẩy sinh ra những mỹ đức thanh sạch, hòa thuận, tiết độ, nhu mì, đầy dẫy lòng thương xót và bông trái lành, không hai lòng và giả hình. Và đó mới là khôn ngoan thật.
Người khôn ngoan thật theo lời dạy của Chúa cũng là người biết thực hành Lời Chúa. Chúng ta sẽ gặp mưa sa, nước chảy, gió lay trong cuộc đời, nhưng nếu chúng ta nắm vững Lời Chúa và thực hành lời dạy của Ngài sẽ không có một điều gì trên đời nầy có thể làm cho chúng ta giao động.
“Người khôn chớ khoe sự khôn mình, người mạnh chớ khoe sự mạnh mình, người giàu chớ khoe sự giàu mình, nhưng người nào khoe hãy khoe về trí khôn mình biết Ta là Chúa Hằng Hữu, là Đấng làm ra sự thương xót, chính trực và công bình trên đất vì Ta ưa thích những điều ấy, Chúa Hằng Hữu phán vậy.”
Mục sư Nguyễn Thỉ
Chương Trình Phát Thanh Tin Lành
Nguồn Tinlanhbayarea.org
Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Nó bảo: “Chúng ta không thể nào ngăn cản bọn Cơ-đốc nhân đi Nhà Thờ. Chúng ta không thể ngăn cản bọn họ đọc Kinh Thánh và biết được chân lý. Chúng ta cũng không thể ngăn cản chúng tạo ra một mối tương quan thân mật với Chúa Giê-xu… Nhưng nếu họ liên lạc được với Chúa Giê-xu, quyền lực của chúng ta đối với họ sẽ tiêu tan! Vì vậy, hãy cứ để cho bọn họ đi Nhà Thờ, để cho bọn họ giữ nếp sống riêng, nhưng chúng ta nhất quyết phải cướp lấy hết thì giờ của chúng, để chúng không thể có được mối tương quan thân mật với Chúa Giê-xu. Đấy là điều ta muốn các ngươi làm, hỡi các ác thần đáng kinh tởm của ta! Hãy làm cho bọn họ xao nhãng việc tiếp xúc với Chúa Giê-xu chúng và không tài nào giữ được mối liên lạc ấy suốt cả ngày!”.
Đám ác thần nhao nhao lên: “Vậy chúng tôi phải hành động thế nào để làm được như thế?” Sa-tan liền trả lời một cách thâm hiểm: “Hãy làm cho bọn họ bận rộn với những điều không thiết yếu trong cuộc đời và tạo ra thật nhiều chương trình để cho đầu óc họ không rảnh rỗi. Hãy xúi dục họ tiêu xài, tiêu xài, tiêu xài rồi kiếm tiền, kiếm tiền, kiếm tiền… Hãy thuyết phục các bà vợ đi làm nhiều giờ và các ông chồng đi làm 6, 7 ngày mỗi tuần, từ 10 đến 12 giờ mỗi ngày, để họ có thể thoải mái sống cái cuộc sống trống rỗng của họ. Hãy ngăn cản họ dành thì giờ cho con cái…”
“Khi vợ chồng con cái ly tán thì chẳng bao lâu gia đình sẽ bị công việc gây áp lực ! Hãy kích thích tâm trí họ tối đa, để họ không còn có thể nghe ra tiếng nói êm dịu, nhỏ nhẹ kia…”
“Hãy khuyến khích họ mở máy radio hoặc cassette khi họ lái xe đi làm. Hãy để cho ti-vi, đĩa hình, đĩa nhạc và máy vi tính chạy suốt cả ngày trong nhà. Và làm sao cho các cửa tiệm và nhà hàng liên tục trỗi lên những bản nhạc xa rời Kinh Thánh. Điều này sẽ làm cho đầu óc họ bận rộn và cắt đứt được hoàn toàn mối liên lạc với Chúa Giê-xu…”
“Hãy đặt trên bàn ăn sáng, tất cả các tạp chí và nhật báo. Hãy chất đầy đầu họ với tin tức 24 giờ một ngày. Hãy làm ngập những giờ phút lái xe của họ với các bản quảng cáo. Hãy đổ tràn vào hộp thư họ những bức thư tào lao, những giấy đặt hàng, bản cá cược, và mọi loại thư khuyến mãi tiếp thị các loại sản phẩm và các dịch vụ miễn phí, cùng với những niềm hy vọng hão…”
“Hãy đặt các người mẫu mảnh mai và xinh đẹp trên bìa những tạp chí để cho các ông chồng tin rằng sắc đẹp ngoại hình là điều quan trọng, và họ sẽ chán ngấy bà vợ của mình. A ha! Điều này sẽ làm cho các gia đình tan vỡ thật nhanh chóng!”
“Ngay cả trong các cuộc giải trí của họ, hãy biến chúng thành quá đà. Hãy làm cho họ đi nghỉ cuối tuần về mà mệt nhừ, bất an, và không sẵn sàng bắt đầu một tuần làm việc mới…”
“Đừng để họ đến với thiên nhiên để nhìn ngắm các kỳ quan của Chúa. Hãy đưa họ đến các công viên giải trí, các sòng bạc, các hoạt động thể thao, các nơi hòa nhạc và chiếu phim. Hãy làm cho họ bận rộn, bận rộn, thật bận rộn!”
“Và khi họ gặp nhau để chia sẻ tâm linh, hãy truyền vào những lời nói xấu và tiếng to tiếng nhỏ để họ ra về với lương tâm bất ổn và tình cảm bất an…”
“Tiến lên đi, hãy để cho họ dấn thân vào việc cứu vớt các linh hồn. Nhưng hãy đổ vào cuộc đời họ thật nhiều thiện ý đến độ họ không còn thì giờ tìm kiếm sức mạnh nơi Chúa Giê-xu. Chẳng bao lâu, họ sẽ hoạt động bằng sức lực của chính mình, và rồi họ hy sinh sức khỏe và gia đình để phục vụ mục đích ấy. Biện pháp này hiệu quả đấy, hiệu quả lắm!”
Đấy chỉ là một cuộc hội nghị. Và bọn ác thần hăng say chia tay ra về với nhiệm vụ là làm cho các Cơ đốc nhân khắp nơi bận rộn, thật là bận rộn, quá đỗi bận rộn, phải chạy từ nơi này đến nơi khác…
Tôi đoán là các bạn sẽ đặt câu hỏi: liệu ma quỷ có thành công trong chương trình ấy không? Bạn hãy tự xét lấy nhé!
Chúa Jêsus đang giữ vị trí nào trong thời gian biểu của bạn? Liệu bạn dành hầu hết thời gian của mình cho Chúa hay cho những chương trình riêng của mình, ngay cả đó là chương trình hầu việc Chúa?
Sưu Tầm
Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ:
– “Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi. “
– “Không được,” Thần Chết lắc đầu.
– “Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không?” Anh ta tiếp tục van xin.
– “Không được!” Thần Chết vẫn không đồng ý.
Anh ta vội nói:
– Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không?”
– Không được!” Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay.
Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng:
– “Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy.”
Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng:
– “Xin hãy ghi nhớ: Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày.“.
Bạn thấy đấy, giá trị của thời gian không nằm ở đồng tiền, giá trị của thời gian nằm ở những năm tháng chúng ta đang sống hoài hoang phí. Chúng ta đang hoang phí thời gian mình có, thời gian mà, đang đếm ngược, đang trừ dần từng ngày ta bước qua.
Trong khi những sĩ tử thi đại học đang trong những ngày thi vất vả, khi những người lao động đang làm việc cật lực trong nhà máy, những cỗ xe, những máy cày đang cật lực cày kéo trên những cánh đồng, thì chúng ta ngồi đây, một số người than thở vì tình, một số người khóc lóc cho những chuyện vụn vặt….
Bạn có biết, tuổi thọ trung bình của người Việt là 70 năm. Nhưng trong 70 năm ấy, có người sống trọn nhưng không để lại thứ gì cho đời. Có người sống 30 năm nhưng lại để lại tất thảy những điều tốt đẹp.
Nếu giá trị thời gian, tiền không đo đếm được, thì giá trị của cuộc đời, thời gian không đo đếm được.
Mục đích của câu chuyện này là nhấn mạnh cách sử dụng cuộc sống. Dù cả đời bạn làm việc cật lực để kiếm tiền, nhưng bạn không biết cách sử dụng chúng cho những điều tốt đẹp, thời gian cũng là vô ích. Bạn sẽ không để lại điều gì đẹp đẽ cho đời. Khối tài sản hiện có cũng vô giá trị về mặt tinh thần, bạn ra đi mà không có kỉ niệm vui, không có những năm tháng hạnh phúc bên người thân, bạn bè, không có những ngày “lăn lộn” cùng chiến hữu… Đó mới chính là giá trị thực mà không thứ gì mua được.
Bạn sống 20 năm, nhưng đối tốt với người thân, bạn bè, làm những việc có ích cho đời, còn hơn sống 70 năm mà sống hoài sống phí. Hoặc một mình cô độc giữ khư khư khối tài sản, hoặc làm những việc ngốc nghếch tổn hại đến bản thân.
Đứng lên cô gái yêu đơn phương, cô gái thất tình!
Tỉnh lại nào cậu học trò nhỏ uống thuốc tự vẫn! Cậu còn quá nhiều điều để làm hơn là chết một cách vô vị như vậy. Khóc để làm gì, thở than để làm gì khi ta còn chưa có những kỉ niệm vui?
Cái có giá trị và quan trọng nhất mà cuộc sống mà chúng ta có được là thời gian. Khi còn chưa làm được gì có ích cho đời, thì cũng đừng làm những điều vô vị. Bởi vì đồng tiền không mua được thời gian, nên phải sử dụng chúng một cách hợp lý.
Đừng vì một người, một vài lời nói, mà làm những điều vô tri, đánh mất thứ quý giá của bản thân. Chính là thời gian bạn sống.
Hãy nhớ rằng: Tiền có thể mua được một chiếc đồng hồ nhưng không mua được thời gian.
Sưu Tầm
Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Bà Hokanson là người duy nhất phải chu cấp cho đứa con trai tên là Arthur bị bệnh tâm thần. Nhưng rồi vì già yếu, bà phải nằm liệt. Khi có những nhóm người trong hội thánh đến thăm, họ ngạc nhiên vì thấy bà không tuyệt vọng, không buồn bã gì cả. Họ hỏi: “Bây giờ bà làm sao đây, còn con bà ai lo?” Bà vẫn bình thản trả lời: “Chúa sẽ cung ứng.”
Khi bà Hokanson chết, nhiều người không biết cậu con trai mắc bệnh tâm thần làm sao sống được. Nhưng khi bạn bè và người thân đến thăm, Arthur vui vẻ mở cho họ xem một thùng thư cậu ấy tích trữ. Đây là thư người ta gửi cho mẹ Arthur. Arthur thích sưu tầm tem nên lấy cả thư. Thay vì xé tem ra giữ, Arthur cất nguyên cả phong bì thư, không đưa cho mẹ mà cũng không mở ra. Những người thân tò mò mở các thư này, thấy rằng nhiều thư có cả tiền từ những người hảo tâm đã gửi cho bà Hokanson, nhưng vì Arthur giữ thư nên bà không biết. Gom góp các số tiền này lại đủ cho Arthur sống cho đến mãn đời.
Đây là một chuyện hi hữu nhưng đúng như bà Hokanson đã tin tưởng, “Chúa đã cung ứng.”
Thi Thiên 121:1-2
“Tôi ngước mắt lên trên núi:
Sự tiếp trợ tôi đến từ đâu?
Sự tiếp trợ tôi đến từ Đức Giê-hô-va,
Là Đấng đã dựng nên trời và đất.”
Sưu tầm
Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Tiêu chuẩn mới Chúa Giê-xu đưa ra như sau: “Ta phán cho các ngươi rằng, nếu công chính của các ngươi không trổi hơn công chính của các thầy thông giáo và người dòng Pha-ri-si, thì các ngươi sẽ chẳng bao giờ vào nước thiên đàng được.” Thầy thông giáo và người dòng Pha-ri-si là giới lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ. Họ là những con người đạo hạnh, giữ luật rất nghiêm minh nhưng họ chỉ giữ luật bề ngoài, tuân theo luật bề ngoài. Người ta không thể dựa vào luật lệ để bắt tội những người nầy vì họ giữ luật rất kỹ, nhưng tâm địa của họ rất xấu xa. Chúa Giê-xu gọi họ là những con người giả hình, những người đạo đức giả. Trong lời dạy cho các môn đệ, Chúa Giê-xu cho thấy nếu họ cũng sống như giới lãnh đạo tôn giáo thời ấy thì họ không thể nào được vào Nước của Chúa và Chúa cho thấy một tiêu chuẩn đạo đức cao hơn đạo đức của những người chỉ giữ luật theo bề ngoài.
Đây cũng là lỗi lầm chúng ta thường mắc phải. Chúng ta có thể vâng theo luật lệ rất nghiêm minh nhưng con người bên trong của chúng ta như thế nào, không ai biết. Và Chúa cảnh cáo: nếu chỉ giữ đạo bề ngoài như vậy, chúng ta sẽ không bao giờ được thừa hưởng Nước Trời. Ví dụ đầu tiên về vấn đề tuân giữ nầy được Chúa Giê-xu phán dạy như sau:
Các ngươi có nghe lời phán cho người xưa rằng: Ngươi chớ giết ai; và rằng: Hễ ai giết người thì đáng bị tòa án xử đoán. Song ta phán cho các ngươi: Hễ ai giận anh em mình thì đáng bị tòa án xử đoán; ai mắng anh em mình rằng: Ra-ca, thì đáng bị tòa công luận xử đoán; ai mắng anh em mình là đồ điên, thì đáng bị lửa địa ngục hình phạt (Phúc Âm Ma-thi-ơ 5:21-22 ).
Đây là lời dạy của Chúa Giê-xu về tội sát nhân. Chúng ta có thể không phạm tội giết người nhưng Chúa Giê-xu cho thấy như vậy không đủ. Chúng ta có thể không mắc tội giết người dựa vào luật của con người, nhưng chúng ta xử sự như thế nào với những người chung quanh? Tòa án con người chỉ xét xử những người phạm tội sát nhân mà thôi nhưng theo tiêu chuẩn của Chúa, người giận dữ và nặng lời mắng chửi người khác cũng đáng tội như kẻ giết người. Tại sao Chúa Giê-xu lại buộc tội nặng nề như vậy? Trước hết Chúa Giê-xu cho thấy rằng tất cả mọi tội lỗi đều phát xuất từ lòng người. Chúa phán: Từ nơi lòng mà ra những ác tưởng, những tội giết người, tà dâm, dâm dục, trộm cướp làm chứng dối và lộng ngôn (Ma-thi-ơ 15:19). Sở dĩ việc giận dữ và mắng chửi người khác cũng đáng tội như kẻ sát nhân vì chính lòng thù ghét, giận dữ sẽ đưa đến chỗ giết người. Trong các vụ sát nhân, người ta luôn luôn điều tra dựa trên ba yếu tố: động cơ thúc đẩy, phương tiện và dịp tiện. Một hành động sát nhân bắt đầu với một ý định sát nhân. Ý định đó có thể là thù ghét, có thể là lòng tham, muốn chiếm đoạt của cải hay sự ghen tức hay là muốn trả thù. Từ ý định đó người ta mới tìm cách để hại người tức là phương tiện và khi có cơ hội, người ấy sẽ ra tay, đó là dịp tiện. Giận dữ sẽ đưa đến sát nhân, chính vì vậy mà Chúa Giê-xu phán: Hễ ai giận anh em mình thì đáng bị tòa án xử đoán. Giận đây nói đến cái giận vì lòng thù ghét. Mắng chửi người khác với những danh từ không đẹp như Ra-ca, nghĩa là đồ vô dụng hay đồ điên là những danh từ thóa mạ, hạ phẩm giá người khác. Chúng ta biết rằng lời nói độc hại có thể làm nguy hại đến sức khỏe và mạng sống của người khác. Trong những tội ngược đãi người ta cũng kể đến tội ngược đãi bằng lời nói.
Tòa án con người có thể không buộc tội kẻ giận dữ hay người mắng chửi người khác nhưng trong công lý của Thiên Chúa, Kinh Thánh cho thấy những người đó đáng bị lửa địa ngục hình phạt. Để tránh khỏi hình phạt, Chúa Giê-xu đưa ra phương cách để ngăn chận như sau. Chúa phán:
Ấy vậy, nếu khi nào ngươi đem dâng của lễ nơi bàn thờ, mà nhớ lại anh em có điều gì nghịch cùng mình, thì hãy để của lễ trước bàn thờ, trở về giảng hòa với anh em trước đã; rồi hãy đến dâng của lễ. Khi ngươi đi đường với kẻ nghịch mình, phải lập tức hòa với họ, kẻo họ nộp ngươi cho quan án, quan án giao ngươi cho thầy đội, mà ngươi phải ở tù (Phúc Âm Ma-thi-ơ 5:21-25).
Trong cả hai trường hợp, Chúa Giê-xu cho thấy rằng giải hòa với người khác là phương cách để sống hòa bình và tránh tội sát nhân. Đem dâng của lễ nơi bàn thờ nói đến người tôn thờ Chúa. Chúng ta không thể tôn thờ Thiên Chúa nếu không trước hết giải hòa với anh em mình. Chúng ta không thể nói chuyện đạo đức nếu không giải quyết những tranh chấp cá nhân với người khác. Ngay cả trong việc kiện tụng cũng vậy, giải hòa với người khác là điều nên làm để tránh tranh chấp.
Trong đời sống, người ta buộc tội những kẻ sát nhân, nhưng nếu không cẩn thận, chính chúng ta cũng có thể vướng vào tội đó khi chúng ta giận dữ hay mắng chửi người khác. Để khỏi vướng vào tội đó, chúng ta cần sống hòa bình với mọi người, giải hòa với nhau trước khi nói đến bất cứ điều gì khác. Công chính của con người chỉ buộc tội sát nhân nhưng công chính của Thiên Chúa vượt cao hơn: Thiên Chúa thấy từ tâm địa, từ tấm lòng của con người. Giữ cho tâm hồn trong sạch bằng cách thực hành Lời Chúa chính là phương thuốc phòng ngừa hữu hiệu cho mọi tội ác. Lòng trong sạch là một trong tám phước lành Chúa Giê-xu đã dạy. Đó cũng là một trong những đặc tính của người theo Chúa. Theo Chúa thật sự là để cho Ngài thanh tẩy tâm hồn để sống thánh thiện và hạnh phúc trên trần gian nầy.
Mục sư Nguyễn Thỉ
Chương Trình Phát Thanh Tin Lành
Nguồn Tinlanhbayarea.org
Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Người nhu mì là người như thế nào? Nhu mì mang ý nghĩa nhân từ, hiền hòa, khiêm nhường, lịch sự. Tuy nhiên, chúng ta phải tìm hiểu ý nghĩa của chữ “nhu mì” trong tiến trình hạnh phúc thật Chúa Giê-xu trình bày. Người nhu mì nằm giữa người than khóc và người khát khao công chính. Than khóc là ý thức về tội lỗi của mình và ăn năn, nhưng đó là đối với Chúa, còn đối với người thì sao? Con người chúng ta dễ dàng nhận tội với Chúa, nhưng kể mình là người tội lỗi, xấu xa so với người khác không phải là điều dễ làm nếu không nói là chúng ta không muốn làm. Người nhu mì vì vậy là người sau khi ý thức mình là tội nhân trước mặt Thiên Chúa, biết xử sự với người chung quanh với cái nhìn đúng về chính mình.
Chính chúng ta không có gì đáng cho mình khoe khoang. Hãnh diện hay hợm mình cả. Một người ý thức tình trạng tội lỗi của mình sẽ tự nhiên cư xử đúng với người chung quanh. Còn kiêu ngạo là vì chúng ta chưa thấy rõ con người thật của mình. Một khi đã thấy rõ, chúng ta sẽ sống với lòng khiêm nhu, không đòi hỏi nơi người khác. Điều này thể hiện rõ ràng trong trường hợp những người cùng sống trong một cảnh ngộ: Những người cùng ngồi tù, cùng bị áp bức thấy thương nhau hơn và đối xử với nhau tử tế hơn. Chúng ta là những người cùng chung số phận trước mặt Đức Chúa Trời nên không thể hợm mình. Coi người khác không ra gì, trái lại, chúng ta sẽ có lòng khiêm nhu hay nhu mì.
Người xưa nói rằng, “Nhu thắng cương, nhược thắng cường,” mềm là hơn cứng, yếu là hơn mạnh. Một số người có thể không đồng ý với triết lý nầy vì cho rằng mềm mỏng là dấu hiệu của hèn yếu, ủy mị. Chúng ta cho rằng sống thì phải cứng rắn, không thể nhu nhược. Nhưng chúng ta để ý thấy rằng Chúa Giê-xu không phán, “Phước cho người nhu nhược.” Chúa phán, “Phước cho người nhu mì” Nhu mì không phải là nhu nhược. Nhu mì là có cái nhìn đúng về chính mình trước mặt Thiên Chúa và loài người. Có cái nhìn đúng về chính mình, chúng ta sẽ không hợm hĩnh. Kiêu căng vì trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chỉ là những tội nhân đáng chết. Chúng ta được sống là nhờ ơn thương xót của Thiên Chúa. Ý thức như vậy, chúng ta sẽ xử sự đúng với người chung quanh.
Hạnh phúc của những người nhu mì theo lời dạy của Chúa Giê xu là sẽ hưởng được đất. “Hưởng” nói đến việc thừa hưởng, như một người thừa hưởng gia tài, đất ruộng của cha mẹ để lại. Người sống với thái độ khiêm nhu sẽ hưởng những gì Chúa hứa. Xưa nay, để chiếm được đất đai, người ta phải hung hăng, lấn lướt. Nhưng hung hăng như vậy lắm khi lại chẳng được gì. Chúng ta đều biết câu chuyện gió và mặt trời thách thức với nhau xem thử ai có thể lột chiếc áo choàng dày khỏi người bộ hành. Gió ra sức thổi mạnh, nhưng càng thổi, người kia càng giữ chặt lấy áo. Còn mặt Trời chỉ nhẹ nhàng chiếu ánh nắng xuống là đủ làm cho người khách tự động bỏ chiếc áo dày cộm khỏi người. Nước thât mềm nhưng không giươm dao nào có thể chặt được nước. Sắt thật cứng, ta đập không gãy được nhưng lữa làm cho sắt mềm dễ dàng. Người khiêm nhu là người mềm, mềm mại trước mặt Thiên Chúa, mềm mõng với người chung quanh và đó là người hạnh phúc. Đối với Chúa, người hung hăng lấn lướt không phải là người chiếm được đất đai nhưng là người có lòng khiêm nhu. Chúa phán. “Phước cho những kẻ nhu mì vì sẽ hưởng được đất.”
Trước mặt Thiên Chúa và trước mặt mọi người, bạn là người khiêm nhường hay kiêu ngạo? Chúng ta kêu ngạo khi nghĩ rằng mình có gì hơn người khác. Nhưng chúng ta khiêm nhường khi biết rõ con người thật của mình. Con người chúng ta trước mặt Thiên Chúa chẳng có gì đáng hãnh diện cả vì cho rằng mình cũng còn khá hơn người khác. Nhưng khá hơn trong tiêu chuẩn nào? Trong tiêu chuẩn riêng của chúng ta, có lẽ chúng ta khá hơn thật, nhưng còn tiêu chuẩn của Thiên Chúa thì sao?
Người đời chủ trương chinh phục, chiếm đoạt, thu nhập cho nhiều và dư thừa. Thành công theo đời là chinh phục và sở hữu, nhưng Chúa Giê-xu dạy, “Phước cho những kẻ nhu mì vì sẽ hưởng được đất.” Người nhu mì thấy như bị thiệt thòi, vì không giành giựt, không chiếm đoạt nhưng đó là người hưởng được đất, người kinh nghiệm gia sản Thiên Thượng, sống một đời sống phong phú và phước hạnh.
Sống khiêm nhu là sống theo gương Chúa Giê-xu. Chúa phán: “Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường nên hãy gánh lấy ách của Ta và học theo Ta thì linh hồn các con sẽ được an nghỉ. “Chúng ta chưa được an nghỉ vì vẫn còn cố giắng tranh đấu, giành giựt, chiếm đoạt. Chỉ khi nào chúng ta khiêm nhu, yên lặng, học theo gương của Chúa, chúng ta mới kinh nghiệm an nghỉ và hạnh phúc thật sự.
Chúng ta cần nhìn lại đời sống của mình. Chúng ta sống như thế nào trong mối quan hệ với người chung quanh? Chúng ta là những con người tự phụ, tự kiêu hay là những con người khiêm nhu, mềm mỏng? Đây không nói đến bản tính tự nhiên của chúng ta nhưng nói đến một tiêu chuẩn mới. Tiêu chuẩn của những người muốn hưởng hạnh phúc đích thực trong vương quốc của Thiên Chúa. Ước gì bạn cũng có được kinh nghiệm của những người khiêm nhu trong Nước Trời.
Mục sư Nguyễn Thỉ
Chương Trình Phát Thanh Tin Lành
Nguồn Tinlanhbayarea.org
Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com