100 Năm Tin Lành VN
Trong thư kêu gọi ngày 2/4 vừa qua, BTC mong muốn tất cả các HT tích cực quãng bá chương trình lễ kỷ niệm 100 năm vào tháng 6 sắp tới tại 2 địa điểm cụ thể: Từ 14-16/6 tại Cung văn hoá thể thao tiên sơn và Nhà thi đấu đa năng thành phố Đà Nẵng, từ 23-24/6 tại Trung tâm triễn lãm Sài Gòn (799 đại lộ Nguyễn Văn Linh, Q7) bằng việc treo băng rôn, trang trí nhà thờ trong 2 tuần diễn ra đại lễ.
BTC cũng kêu gọi tất cả các chi hội tổ chức những buổi thuyết trình về lịch sử HT trong các giờ nhóm lại, nhắc đến những ơn phước của Chúa và công khó của các tiền nhân, cũng như tích cực tổ chức những chương trình Truyền Giảng hầu đưa nhiều người về với Chúa, đây mới là của lễ quan trọng nhất mà con dân Chúa dâng lên trong ngày đại lễ.
Cung thể thao Tiên Sơn
Nơi tổ chức chương trình tại TP Đà Nẵng
Trung tâm hội chợ triễn lãm Sài Gòn – Nơi tổ chức lễ kỷ niệm tại TP HCM
Hoithanh.com
Hình ảnh: Tổng Liên Hội
Bài vở cộng tác, góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Theo đó, ngày 9/3 UBND tỉnh Bình Thuận cũng đã ra quyết định trao trả khu đất nhà thờ TL Phúc Âm 2 để cho HT xây dựng cơ sở thờ phượng Chúa. Đây là một tin vui lớn sau những biến cố thăng trầm của Hội Thánh Chúa tại nơi đây. Cũng nên nhắc lại rằng khu đất nói trên từng nhiều lần “được” đề nghị để làm cơ sở của chính quyền địa phương.
Được biết Chi hội Phúc Âm 2 là một trong 3 Hội Thánh được thành lập từ chương trình tái định cư cho cộng đồng tín hữu Tin Lành ở các tỉnh miền Trung di dân vào khu định cư Phúc Âm, Bình Tuy (nay là huyện Hàm Tân, Bình Thuận) của Tổng Liên Hội vào năm 1973. Trong điều kiện khó khăn nhưng với tấm lòng yêu mến Chúa cũng như được sự giúp đỡ của Tổng Liên Hội, con dân Chúa tại đây đã nhóm hiệp cách phước hạnh và xây dựng ngôi nhà thờ khang trang từ năm 1974.
Năm 1979, tại khu vực có xảy ra một số biến cố dẫn đến việc 3 nhà thờ Tin Lành gồm Phúc Âm 1, Phúc Âm 2, Phước Hiệp bị Nhà nước đóng cửa. Từ đó trở đi, con dân Chúa tại đây phải lặn lội quảng đường khá xa hơn 30km để thờ phượng Chúa vào mỗi Chúa nhật tại các nhà thờ ở Lagi (Bình Thuận), Sông Ray (Xuân Lộc, Đồng Nai), Long Khánh… Bên cạnh đó con dân Chúa tại đây cũng tổ chức những buổi nhóm tuần hoàn và cầu nguyện cho sự phượng cùng cơ sở của HT tại tư gia của một số trưỡng lão.
Năm 1990, Chính quyền cho phép mở cửa nhà thờ Tin Lành Phúc Âm 1, cộng đồng con dân Chúa thuộc viên 3 Chi hội trước đây cùng gom nhóm lại để thành lập HTTL Phúc Âm với khoảng 2000 tín đồ. Riêng cơ sở của nhà thờ TL Phúc Âm 2 bị bỏ hoang và không được phép sử dụng. Nhiều lần tưởng chừng cơ sở nói trên đã bị mất và chuyển đổi mục đích sử dụng nhưng bàn tay Đức Chúa Trời vẫn ở cùng và gìn giữ sản nghiệp của HT.
Cơ sở nhà thờ TL Phúc Âm 2 hiện tại
Tạ ơn Chúa đầu năm 2011, hiệp với con dân Chúa tại nơi đây, BTS/TLH đã trình đơn xin chia tách tổ chức tôn giáo đến UBND và Ban tôn giáo Bình Thuận với mong muốn được tái lập chi hội Phúc Âm 2 và xin lại cơ sở của Hội Thánh. Ngày 11/2, UBND tỉnh Bình Thuận đã có quyết định cho phép thành lập Chi hội Phúc Âm 2 với khoảng 900 tín đồ (Phúc Âm 1 còn lại khoảng 1100 tín đồ). Quyết định cũng nói rõ cơ sở thờ tự của HT là địa điểm mà TLH đang xin xây dựng tại thôn 2, xã Tân Phúc, huyện Hàm Tân.
Hiện tại MS Lê Khắc Hóa, trưởng BĐD Tin Lành Bình Thuận kiêm quản nhiệm HT Phúc Âm 2, Ban chấp sự lâm thời cũng đã được bầu chọn và được chính quyền địa phương công nhận.
Trong niềm vui khôn xiết, con dân Chúa tại đây tổ chức Lễ Cảm Tạ công bố quyết định thành lập và ra mắt chi hội vào lúc 8h30 ngày 19/4 tới đây tại khuôn viên nhà thờ TL Phúc Âm 2 cũ.
Ban chấp hành HT lâm thời cũng mời gọi tất cả tôi con Chúa xuất thân từ Phúc Âm trở về để tham dự, tôn vinh Chúa và cùng chung vui với HT tại nơi đây. Đặc biệt BTC cũng kêu gọi các bạn trẻ của Phúc Âm đang học tập và làm việc tại nơi xa trở về dự và tôn vinh Chúa trong chương trình.
Về cơ sở vật chất hiện tại của HT, sau 32 năm (1979-2011) bỏ hoang, ngôi nhà thờ đã xuống cấp và có thể sụp đổ bất kỳ lúc nào, mọi tiện nghi phục vụ cho sự thờ phượng Chúa như tòa giảng, bàn ghế, hệ thống âm thanh, ánh sáng…đều chưa có gì. Xin tôi con Chúa khắp nơi nhớ đến cầu nguyện và góp phần dâng hiến cho HT tại nơi đây để công việc Chúa được phát triển, gây dựng chăm sóc những tín đồ yếu đuối và mở mang HT Chúa.
Nguyện Chúa chu cấp cho HT tại đây mọi sự cần dùng cũng như ban cho tôi con Chúa sự hiệp một, xây dựng nhà Chúa ngày một phát triển, và cùng hiệp với các HT trong khu vực, đặc biệt là Phúc Âm 1 để đem Tin Lành đến với những người hư mất.
Trong bối cảnh mà hàng trăm cơ sở của Giáo hội còn đang bị chiếm dụng, TLH đã nhiều lần đệ đơn xin Chính quyền trao trả, đặc biệt là cơ sở của HT Biên Hoà như đã đề cập trong thời gian gần đây, việc cho phép tái lập chi hội Phúc Âm 2 và trao trả khu đất nhà thờ TL bị bỏ hoang 32 năm là động thái tích cực, khích lệ nhiều HT để tiếp tục cầu nguyện và xin chính quyền trao trả hàng trăm cơ sở còn lại của giáo hội.
Lê Tuấn
Bài vở cộng tác, góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Nếu gọi Công Vụ Các Sứ Đồ là Công Vụ Của Chúa Thánh Linh, thì công trình phát triển Tin Lành trên đất nước chúng ta 100 năm qua cũng là công việc của chính Ngài.
Đấng nắm trong tay lịch sử của loài người, cũng là Đấng sắp xếp, dẫn đưa những giáo sĩ Tin Lành đến Việt Nam, lập hội thánh đầu tiên tại Đà-Nẵng vào năm 1911. Ngài cũng hướng dẫn Ông Bà Giáo Sĩ Cadman, nói tiếng Việt chưa rành, kết hợp với Ông Phan Khôi, một văn sĩ ngoại đạo, mà dịch và in ra bộ Kinh Thánh Tiếng Việt đầu tiên vào năm 1926, trong một thời gian kỷ lục 7 năm, với phương tiện kỹ thuật còn rất thô sơ, mà còn được dùng và được ưa chuộng cho đến ngày nay…Đấng đó đã thổi luồng sinh khí và đem lửa phấn hưng đến Việt-Nam qua sứ giả Tống Thượng Tiết vào năm 1938 để làm cho cứng mạnh đời sống đức tin của những người theo Chúa thời đầu và mở ra việc truyền giảng Tin Lành đột phá cho cả ba vùng Trung Nam Bắc Việt Nam trước những biến cố lịch sử vào những năm 1945 và kế tiếp. Chính Đức Chúa Trời đã giang cánh tay quyền năng ra để bảo vệ hội thánh Ngài qua trận đói lich sử năm 1945 và sự ngăn cấm đạo Tin Lành trong thời kỳ Pháp thuộc. Từ thời Chúa Jesus đến bây giờ, sự bắt bớ và bách hại đạo Chúa thời nào cũng có. Bởi vậy từ buổi bình minh của Hội Thánh Chúa, Giáo Phụ Tertullian (160-220AD) đã đưa ra nhận xét bất hủ rằng: “Máu của những người tử đạo là hạt giống của Giáo Hội” (The blood of the martyrs is the seed of the Church) Từ ý thức đó, chúng ta không phải bận tâm quá đáng đến trở lực ngăn cản đạo Chúa, nhất là tuyệt đối không nương nhờ vào thế lực trần gian nầy để đối kháng với những thế lực mà thời đại nào Satan cũng muốn dùng mà chống lại đạo Ngài. Chúng ta cũng chẳng ai mong đợi một Constantine thời đại để giúp chúng ta dễ dãi trong việc truyền rao danh Chúa. Nhưng tất cả chúng ta đều muốn nét mặt cả giận của Nê-bu-cat-nết-sa thấy được quyền năng cả thể của Đức Chúa Trời chí cao, mà thay đổi thái độ để quay trở lại mà thờ phượng Ngài, như chúng ta đã thấy trong Đa-ni-ên đoạn 3.
Đa-vít đã thốt lên rằng, “Ôi! Nếu tôi không tin chắc rằng sẽ thấy ơn của Đức Giê-hô-va tại đất kẻ sống, thì tôi hẳn đã ngã lòng rồi.” Ơn lành của Chúa trên đất nước chúng ta trong những năm qua là sự thăm viếng từng hồi từng lúc của chính Ngài. Nhiều người trong chúng ta vẫn còn nhớ đến “Những việc làm của Đức Giê-hô-va tại Thượng Hạt – Năm 1972) mà MS Trương Văn Tốt đã ghi lại. Chính Chúa Giê-Hô-Va đã dùng những phép lạ siêu nhiên của Ngài để nâng đỡ chúng ta trong thời khói lửa chiến tranh, lòng người nao núng.
Trong khi chúng ta còn ngỡ ngàng, bối rối, trước những vận hội mở ra ngay giữa những khó khăn đang bó chặt mà Chúa đã cho ra đời Hội Thánh Tư Gia, vào những năm cuối của thập niên 1980, để ngày nay ơn cứu rỗi của Ngài đã lan truyền khắp mọi miền đất nước; từ những khu phố bị bỏ quên đến những nơi rừng sâu nước độc…Chúng ta phải công bình mà nhìn nhận rằng những người gieo giống Tin Lành nầy, cũng như những tiền nhân của họ, đã âm thầm mang giọt lệ đắng cay đi gieo rắc tình thương của Chúa Jesus đến những miền mà ma quỉ đã cố tình ngăn cản, niêm phong.
Ai nhìn biến cố 1975 – Thống Nhất hai miền Nam Bắc – như thế nào, thì tôi xin được miễn xen vào dòng suy nghĩ của họ. Riêng đối với tôi, thì đó là ơn lành của Chúa đã mở ra cho tất cả đồng bào của chúng ta – người ở trong nước cũng như người bởi biến cố này mà di tản đến nhiều nước khác trên thế giới – để nhận được ơn cứu rỗi của Ngài. Đức Chúa Trời đã dùng quyền phép của Ngài để cứu những kẻ tin đến Danh Ngài, từ nơi những gia đình, những trường hợp, những hoàn cảnh, mà giờ đây nhìn lại, họ phải ngỡ ngàng, sững sờ về ơn cứu chuộc lạ lùng của Ngài. Không gì đổi được.
Thêm một ơn lành của Chúa nữa, là Ngài đối với đồng bào thiểu số của chúng ta. Họ là những dân tộc thiểu số hay dân tộc ít người mà Đức Chúa Trời đã chọn phần lớn trong họ để được hưởng phần cơ nghiệp đời đời của Ngài. Tôi muốn nói đến những dân tộc ít người ở trên Cao Nguyên Bắc Bộ, như dân tộc Dao, H’mong…Những dân tộc như Bru, Ca-tu, H’ré… ở các tỉnh Trung Trung Phần. Và đặc biệt là các sắc dân ở 5 tỉnh Tây Nguyên mà tác giả Đinh Văn Hạnh(ĐVH) đã đề cập đến trong bài khảo luận của ông mà tôi được đọc gần đây. Trong bài này tác giả ĐVH đã đưa ra nhận xét rất sâu sắc và hữu lý rắng: “Tin Lành chỉ có thể xâm nhập và phát triển trong cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên khi họ tìm thấy ở tôn giáo này sự phù hợp với quan niệm truyền thống vốn đã ăn sâu ngàn đời trong họ”. Nhưng trên khía cạnh thần học, thì chính họ là những người được Chúa chọn, như Đức Chúa Jesus đã từng phán trong Giăng 15:16 rằng “Ấy chẳng phải các ngươi đã chọn ta, bèn là ta đã chọn và lập các ngươi…” Đó là một ơn lớn mà Đức Chúa Trời đã để dành cho họ.
Trong những năm gần đây, những buổi truyền giảng Tin Lành đông người do HTTL Việt Nam và các Hiệp Hội Thông Công TL(Tư Gia và nhiều hệ phái TL), ở cả hai miền Nam Bắc tổ chức, đã đem hằng vạn linh hồn đến nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Đó là ơn thương xót lớn của Chúa đối với dân tộc Việt-Nam chúng ta.
Ôn cố để tri tân. Nhìn những gì Chúa đã làm cho con cái Ngài tại quê hương ta, cũng như tại hải ngoại, trong 100 năm qua, để không ai lập ra một chương trình, theo ý riêng mình, cho thời gian sắp tới. Nhưng huấn dụ ngàn đời của Chúa được chép trong sách Tiên Tri Ê-sai 27:5 “Chẳng gì bằng nhờ sức Ta, làm hòa với Ta!”, thì chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ lấy.
Nhờ sức Chúa ban cho mình để tự đứng lên trên chân của mình mà hầu việc Chúa, phát triển đạo Chúa tại nước mình và gởi người đi làm giáo sĩ ở các nước khác để làm trọn đại mạng lệnh của Chúa Jesus, và cũng là cách trả ơn cho những tiền nhân đem Tin Lành cứu rỗi đến cho dân tộc Việt Nam mình. Còn làm hòa với Chúa tức là làm hòa với anh em mình, theo lời nài khuyên từ tấm lòng yêu thương sâu thẳm của Chúa Jesus…yêu những anh em cũng một Cha, cùng một Chúa với mình; hầu cho thế gian nhận biết chúng ta là môn đồ của Ngài. (Giăng 13:34-35)
Chúa ơi, chúng con cám ơn Ngài về những ơn lành mà Ngài đã thi thố trên dân tộc Việt-Nam trong 100 năm qua. Nhưng lòng chúng con vẫn đau xót vì còn vô số người Việt của chúng con, trong tổng số 88 triệu, vẫn chưa nhận được ơn cứu rỗi của Ngài. Đời nầy rồi sẽ qua. Con biết số phận họ rồi sẽ đi về đâu. Chúa Jesus ơi, xin cứu thêm nhiều ngươi Viet-Nam chúng con trước ngày Chúa trở lại. A-men.
Mục Sư Lê Tự Cam – 2011
Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Hiện tại, các cơ quan báo chí cùng tín hữu Tin Lành ở khắp nơi trên thế giới đang hướng về Việt Nam và chào đón những sự kiện đặc biệt sẽ diễn ra trong năm này.
Theo dự định của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, chương trình mừng lễ kỷ niệm 100 năm Tin Lành đến Việt Nam sẽ được tổ chức vào tháng 6 tới đây tại 3 miền: Bắc, Trung, Nam của đất nước.
Nội dung chương trình sẽ gồm những buổi giảng bồi linh, thuyết trình về lịch sử Hội Thánh, chương trình Thánh nhạc Truyền Giảng, tri ân những bậc tiền nhân… Bên cạnh đó là những hoạt động triễn lãm về ảnh và các văn phẩm tư liệu về hành trình 100 năm của Tin Lành trên đất Việt.
Dự kiến chương trình lễ tại Đà Nẵng sẽ được tổ chức cách quy mô nhất vì là nơi kỷ niệm Tin Lành đến Việt Nam đầu tiên. Sẽ có rất đông tín hữu Tin Lành từ các vùng miền trên đất nước cũng như một số lượng lớn người Việt ở hải ngoại sẽ về đây tham dự. Bên cạnh đó là nhiều đại biểu quốc tế.
Song song với những chương trình kỷ niệm của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, Liên Hệ Phái các Hội Thánh Tin Lành còn lại cũng kết hợp với nhau để tổ chức những đêm nhạc Thánh hướng tới kỷ niệm 100 năm với quy mô lớn. Nhân dịp này, những diễn giả hàng đầu thế giới với những buổi Truyền giảng có hàng trăm ngàn người tham gia trên thế giới cũng sẽ có mặt tại Việt Nam để diễn thuyết như Mục Sư Tiến Sĩ Luis Palau, Mục Sư Tiến Sĩ David Yonggi Cho, Mục Sư Tiến Sĩ Reinhard Bonke.
Ngoài những hoạt động kỷ niệm sắp diễn ra cách sôi nổi tại Việt Nam, năm 2011 còn ghi nhận nhiều chương trình lễ hội của người Việt ở khắp nơi trên thế giới, nơi nào có cộng đồng tín hữu, nơi đó có những lễ hội nhân 100 năm Tin Lành đến Việt Nam. Tiêu biểu trong số đó phải nhắc đến chương trình kỷ niệm của con dân Chúa ở Mỹ sẽ được tổ chức tại Crystal Cathedral, Hoa Kỳ vào ngày 2/7/2011. Dự tính sẽ có 5000 tôi con Chúa không phân biệt hệ phái cùng hòa lòng tạ ơn Chúa trong cơ hội này.
Hiện tại khi thời gian trôi dần về cuối tháng 3, con dân Chúa đang hướng lòng về kỷ niệm Chúa chịu thương khó và lễ Phục Sinh. Như thường lệ hằng năm, những chương trình Thánh nhạc truyền giảng quy mô lớn trong dịp này cũng đang được mọi người cầu nguyện và tích cực chuẩn bị để góp phần.
Các tín hữu quốc tế cũng như Việt Nam rất nóng lòng để chào đón vị diễn giả nổi tiếng, Mục Sư tiến sĩ Luis Palau cùng nhạc sĩ lừng danh Don Moen dự kiến sẽ đến Việt Nam nhân lễ Phục Sinh vào tháng 4 này.
MS Luis Palau trong một buổi giảng ngoài trời
Mục sư Luis Palau hiện là chủ tịch của tổ chức Luis Palau. Là một nhà truyền giáo với hơn 40 năm trong chức vụ, MS Luis đã đi khắp thế giới để tổ chức những chương trình Truyền giảng với hàng trăm ngàn người tham dự tại mỗi quốc gia. Ông cũng được xem như là người kế nhiệm của nhà truyền giáo trứ danh Billy Graham (1 trong 10 nhân vật có ảnh hưởng nhất thế giới trước đây). Hiện tại đã có nhiều tôi con Chúa kết ước cầu nguyện liên tục (24/24) cho MS Luis Palau khi hay tin ông có chuyến thăm Việt Nam sắp tới.
Ngoài vị diễn giả lừng danh này, con dân Chúa tại Việt Nam cũng rất vui mừng khi hay tin nhạc sĩ, ca sĩ, mục sư Don Moen cũng sẽ có chuyến thăm Việt Nam. Với những bài Thánh ca bất hủ như I will sing, God will make a way, Thank You Lord, Our Father…Don Moen đã dẫn dắt con dân Chúa bước vào sự hiện diện Thánh và tận hưởng phước hạnh diệu kỳ thông qua âm nhạc thờ phượng. Don Moen là một trong những nhân vật rất có ảnh hưởng trên thế giới Cơ Đốc, đặc biệt là giới trẻ.
Âm nhạc thờ phượng cùng với Don Moen dẫn đưa nhiều người đến sự phước hạnh của Chúa
Tin rằng “Việc Chúa làm” trong suốt 100 năm qua để gây dựng và phát triển Hội Thánh trên đất Việt sẽ tiếp tục, tiếp tục lan tỏa ngày càng nhiều hơn nữa thông qua các tôi tớ Chúa mà đặc biệt nhất là qua chính những cuộc đời được thay đổi khi đến với ánh sáng chân lý, và đem cuộc đời mới ấy làm chứng nhân cho Chúa.
Lê Tuấn
Bài vở cộng tác, góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Với chủ đề “Ơn Chúa Lạ Lùng”, chương trình gồm các bài hát ngợi khen, thờ phượng Chúa cùng lời cảm tạ của MS Nguyễn Xuân Sanh, UVMV TLH, quản nhiệm HT.
Sau phần cầu nguyện khai lễ của MS Mã Phúc Hiệp, trưởng ban đại diện TL Đà Nẵng, cả hội chúng đã hòa lòng trong sự háo hức và vui thỏa với bài biệt Thánh Ca “Môn Đệ Chúa Giê-xu” do các em thiếu ấu nhi trong HT trình bày.
Chương trình cũng có sự góp phần của các ban hát đến từ các HT trong khu vực trước đây là hội nhánh của HT Đà Nẵng như Hải Châu, An Hải, Hòa Mỹ, Tân An. Ngoài ra cũng có phần tôn vinh Chúa của ca sĩ Linh Năng và Nê-ni-ta.
Đặc biệt cả hội chúng đã bừng lên sau bài BTC “Prince of peace” tạm dịch là “Chúa bình an” do Hội Thánh Quốc Tế tôn vinh Chúa. Mạnh mẽ, sâu lắng và hết lòng, mỗi thành viên của ca đoàn với khuôn mặt rạng ngời đã thể hiện bài hát cách xuất sắc, khiến nhiều tín đồ Việt Nam đã cùng họa theo bằng những nhịp vỗ tay như góp thêm những âm điệu của thiên đàng. Những cánh tay của họ giơ cao, một số khác khẽ chạm vào tim bày tỏ sự xúc động to lớn trước những ơn phước mà Chúa ban cho cuộc đời mỗi người. Bài hát đã khuấy động bầu không khí trong chương trình thờ phượng khiến ai nấy đều phải nức lòng mà ngợi khen Chúa.
Ban hát Hội Thánh Quốc Tế tôn vinh Chúa làm nức lòng cả hội chúng
Chương trình lễ kỷ niệm 100 năm thành lập HT Đà Nẵng sẽ được tiếp tục trong ngày mai 17/3 với phần giảng luận của MS Thái Phước Trường, hội trưởng và MS Phan Vĩnh Cự, Phó HT HTTLVN (MN).
Thành phố Đà Nẵng là nơi HTTL đầu tiên trên đất nước Việt Nam được thành lập do sự truyền giáo của các giáo sĩ Hội truyền giáo Phước Âm Liên Hiệp (CMA). Trãi qua nhiều biến chuyển, thăng trầm của thời đại, dầu gặp nhiều khó khăn, bắt bớ nhưng bàn tay Đức Chúa Trời vẫn ở cùng và ban phước cách dư dật để Đà Nẵng ngày nay trở thành một trung tâm truyền giáo và HT lớn mạnh của đất nước.
Nguyện Chúa ban ơn để chương trình kỷ niệm 100 năm TL đến Đà Nẵng nói riêng và lễ kỷ niệm 100 năm TL đến Việt Nam nói chung được diễn ra tốt đẹp, vinh hiển danh Chúa và bày tỏ danh Chúa cách trọn vẹn cho dân tộc Việt.
Nhà thờ Tin Lành Đà Nẵng trong đêm kỷ niệm
Quang cảnh phía trong nhà thờ
Chấp sự hướng dẫn chương trình
Các ban hát tôn vinh Chúa trong chương trình
Phòng triễn lãm trưng bày những tư liệu của HT trong quá trình thành lập và phát triển
Khởi Nguyên
Bài vở cộng tác và góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Thánh Kinh Thần Học Viện Tin Lành Nha Trang, 11 giờ trưa ngày 3.12.1971 trong một buổi thuyết trình về đề tài phấn hưng tại Indonesia năm 1965 và các cuộc phấn hưng khác trên thế giới. Dường như có dấu hiệu lạ thường xảy ra ở tại đây…
Ngọn lửa của Thánh Linh cháy lên bắt đầu từ những lời cầu nguyện âm thầm, rồi hết thảy mỗi người đều cầu nguyện bằng mọi hình thức từ tấm lòng mình. Một người, hai người… rồi hết thảy đều đứng lên đổ tấm lòng ra với Đức Thánh Linh. Ngài đang hiện diện ở đây.
Tiếng kêu cầu, tiếng khóc, họ ăn năn xưng tội cùng nhau… mọi âm thanh ồn ào vang lên
trong căn phòng tưởng như quá nhỏ bé trước sức mạnh mẽ của gió Thánh Linh. Mọi người xưng tội cùng nhau, giốc đổ tấm lòng và lý trí để đầu phục Đức Thánh Linh….. và trở về với khuôn mặt tươi vui, rạng rỡ đầy sức sống mới mãnh liệt của lửa phấn hưng.
Nguyễn Minh (sưu tầm)
Tin tức, bài vở cộng tác, góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com
Mới rồi, tôi nhận được Thánh Kinh báo số 1 mà chủ nhiệm báo ấy là ông mục sư W.C. Cadman gởi tặng, tôi rất lấy làm mừng rỡ, nên viết bài nầy giới thiệu tập báo ấy cho độc giả của Phụ nữ tân văn.
Thánh kinh báo ra một năm 10 số, giá bán đồng niên 1$00, mỗi số bán lẻ 0$15. Số 1 nầy đề tháng Janvier 1931, đây chắc có vì cớ gì đó nên phải xuất bản trước đến ba tháng như vậy.
Hội Tin lành mới có trong nước ta độ hơn 10 năm nay, có lẽ nhiều người còn chưa biết, ta nên cắt nghĩa sơ qua.
Trong sách Tân Ước có chữ “Évangile”, chỉ nghĩa là cái đạo của Jésus-Christ, mà nghĩa đen là cái tin tức tốt lành (bonne nouvelle) về sự đắc cứu mà ngài đem rao báo cho loài người. Chữ Évangile ấy, dịch ra chữ Tàu là “Phước âm”, ra chữ ta là “Tin lành”.
Độc giả hãy biết trước rằng đạo Cơ đốc (Christianisme) có hai phái lớn: Một phái có từ xưa, kêu bằng “Catholique”, truyền sang ta đây đã lâu, ta thường kêu là đạo Thiên Chúa. Một phái nữa mới biệt riêng ra hồi thế kỷ XVI, người ta thường kêu là đạo “Protestant”. Phái nầy mới do giáo hội nước Mỹ truyền sang xứ ta, ta kêu bằng đạo Gia-tô, song chính họ tự đặt tên là “đạo Tin Lành”, còn cái giáo hội (Eglise) của họ ở đây, tên là “Hội Tin Lành Đông Pháp”.
Đây tôi quyết không đặt miệng mà phê bình đến tông giáo và cũng không so sánh hay là khen chê sự hay dở của hai phái ấy đâu. Tôi chỉ muốn cắt nghĩa tại làm sao họ đặt tên tờ báo cơ quan của họ là “Thánh kinh”, nên tôi nói rằng: Cái giáo nghĩa của đạo Tin lành không có vẽ vời ra nhiều nghi thức như bên Công giáo (Catholique), mà chỉ lấy Kinh Thánh làm gốc, bất cứ việc gì đều căn cứ ở Kinh Thánh và nhận một mình Jésus-Christ làm Thầy, do đó lập cái cơ quan nầy ra để phát huy nghĩa lý trong Kinh Thánh.
Nếu vậy thì tôi giới thiệu tờ báo ấy ở đây làm chi? Tôi cổ động cho người mình theo đạo Tin Lành hay sao? Không phải vậy đâu. Về sự tín ngưỡng, ai nấy có quyền tự do; đây tôi giới thiệu Thánh Kinh báo là chuyên về một mặt văn học.
Nhớ dạo trước tôi có viết một bài điền bạch (article de remplissage) đăng trong Trung lập báo, không ngờ hôm nay có dịp xứng đáng được chuyển lục ra đây. Bài ấy như vầy:
Văn học với Kinh thánh.
Kinh Thánh đây tức là Bible, gồm cả Cựu ước và Tân ước. Người có đạo Cơ-đốc ở xứ ta bất luận Cựu giáo (Catholique) hay Tân giáo (Protestant) đều dịch ra tiếng ta kêu bằng Kinh Thánh.
Có nhiều người An Nam mình, theo cái óc cũ, thấy đạo khác thì không ưa, nói rằng: Kinh Thánh là do người có đạo họ tôn trọng kinh của họ mà kêu như vậy; còn mình, người ngoại, không tội chi mà kêu Kinh Thánh như họ.
Ai nói vậy là còn hẹp hòi quá, không hiểu sự học đời nay. Ở bên Tàu và Nhựt Bổn, người không theo đạo cũng kêu bằng Kinh Thánh như người có đạo vậy, vì hai chữ ấy đã thành một cái tên riêng (nom propre) rồi.
Ở đời nay, bất kỳ nước nào, nếu là một nước văn học đúng đắn thì trong đó cũng có chịu ảnh hưởng của Kinh Thánh. Đương thời đây, các nhà văn học đại gia bên Tàu, dầu không phải tín đồ Cơ-đốc đi nữa, trong khi họ làm văn cũng dùng đến chữ trong Kinh Thánh luôn luôn. Như họ dùng chữ “tẩy lễ” là do chữ “Baptême” mà ra; chữ “phước âm”, là do chữ “Evangile” mà ra. Mà những chữ ấy ngày nay họ dùng đã quen lắm, chẳng khác nào chữ gốc trong ngũ kinh tứ thơ vậy.
Còn nói chi về chữ Pháp, thì muốn nói là gốc bởi Kinh Thánh mà ra, cũng không phải quá đáng. Tức như bởi một chữ Bible đó mà sanh ra bộn bề chữ có nghĩa về sách vở. Ấy là như: Người làm sách thì kêu bằng Bibliographe, sự học về biên chép sách vở thì kêu bằng Bibliographie; người ham mê sách vở thì kêu bằng Bibliomane; cái tánh ham sắm sách thì kêu bằng Bibliomanie; người hay tìm mua sách vở thì kêu bằng Bibliophile; cái nhà chứa sách vở thì kêu bằng Bibliothèque. . .
Lại có nhiều câu trong Kinh Thánh đã thành ra tục ngữ (proverbe) hay là thành ngữ (expression) trong tiếng Pháp. Như: “Kẻ tiên tri không được trọng đãi trong quê hương mình”; “Dưới mặt trời chẳng có sự gì lạ” . . . mấy câu đó đều là ở trong Kinh Thánh cả.
Hết thảy những nhà văn học Pháp dầu không theo đạo nữa cũng đều có học qua Kinh Thánh hết, bởi vì văn chương ở đó mà ra. Vậy mà thấy kẻ học ở ta đây ít có người biết đến Kinh Thánh là gì, thì đáng lấy làm tiếc quá.
Đừng nói mấy ông nhà nho họ cho là dị đoan họ không ngó tới đã đành. Các ông học chữ Pháp giỏi mà cũng ít có ông nào đọc tới Kinh Thánh thì cái học ấy cũng gọi được là cái học không gốc.
Có nhiều chữ trong tiếng Pháp – nhiều không xiết kể – nếu chẳng biết đến Kinh thánh thì chỉ hiểu nghĩa cạn cạn mà thôi. Ai đã thông thạo Kinh Thánh rồi thì chắc hiểu sâu hơn mà lấy làm khoái lắm.
Văn quốc ngữ ta cũng nên dùng chữ Kinh Thánh vào. Làm như vậy thì tiếng mình được dồi dào thêm, chớ có hại gì đâu.(*)
Cái bài của tôi đó tuy ngắn cũng đủ thấy Kinh Thánh có quan hệ với văn học ngày nay thế nào. Các chi hội Tin Lành ở xứ ta, đâu đâu cũng có bán đủ Kinh Thánh bằng ba thứ chữ Pháp, Hán và quốc ngữ; ước gì mỗi người có học đều tùy mình biết thứ chữ gì thì mua mà xem. Vì tôi đối với Kinh Thánh có lòng sốt sắng như vậy, nên khi thấy Thánh Kinh báo thì mừng rỡ mà giới thiệu.
Cái chỗ tôi mừng rỡ hơn nữa, là văn chương của Thánh kinh báo còn có phần giúp ích cho văn quốc ngữ ta trong lúc mới lập nền. Bởi vì văn chương của Thánh Kinh báo đặt một cách thật rõ, thật gọn mà lại dễ hiểu nữa, rất hiệp với cái lối bình dân văn học. Tôi xin cử ra đây một vài đoạn trong bài “Tánh nết” ở trương 9 –10 của tập báo ấy:
“. . . Ý tưởng kín nhiệm dầu mình không tỏ, tư dục ngấm ngầm dầu mình không lộ, lời gian dối dầu mình không nói ra miệng, sự phạm thượng dầu mình vẫn chứa trong lòng, nhưng cũng có thể làm hỏng tánh nết, và không sao che tai bịt mắt xã hội được. Tánh nết là sự mầu nhiệm, phải cố sức làm cho hoàn toàn mãi mãi. Tánh tốt quý hơn ngọc, hơn vàng, hơn quyền thế, hơn mão triều thiên. . .
Ở đời, ta phải có mục đích cao xa, nghĩ đến đời đời vô cùng, chớ chẳng phải chỉ lo tính trong tạm thời mà thôi. Không nên để hoàn cảnh uốn nắn tánh nết mình. Ai bị hoàn cảnh sai khiến ấy là người rất nhát, “giống như sóng biển bị gió động mà đưa đi đẩy đi đó” (Gia-cơ 1: 6). Cái giá một người có chí quả quyết chống nổi điều ác, giữ vững điều thiện, thật gấp triệu lần những người yếu chí nhát gan. Ta nên theo gương sáng của Đa-ni-ên quyết chí trong lòng rằng không chịu ô uế bởi đồ ngon vua ăn và rượu vua uống” (Đa-ni-ên 1: 8).
Mỗi người nên kể tánh tốt bằng sự quý nhứt trong đời mình. Cố sức bươn theo mục đích đó, thì đời mình sẽ có giá trị với xã hội và đẹp lòng Chúa… Nếu có mục đích cao xa như thế, dầu không tới được, nhưng lòng mình cũng sẽ hăm hở bươn theo. ông Disraeli có nói: “Một người thiếu niên nếu không ngửa mặt lên trời, ắt sẽ cúi đầu trông xuống; tâm thần không hướng về trời, chắc sẽ sấp mình mà bò trên đất”. Ai sống trong phạm vi cao xa thì cách ăn nết ở sẽ đúng đắn hơn người bậy bạ . . .
Tóm lại, tánh nết là sự cần nhứt trong đời người. Lẽ thật đó, đơn sơ mà cao cả, đẹp đẽ mà oai nghiêm, thật là một bài đạo đức lúc trẻ nên học, khi già phải nhớ.
Xã hội nào định giá tánh nết càng cao bao nhiêu, thì trình độ càng văn minh bấy nhiêu . . . Người nào hoặc nước nào coi khinh tánh nết, thì khó tránh khỏi tiếng bậy bạ, hèn mạt và mọi rợ. Chỗ nào nhơn dân không biết chú trọng tánh nết, thì ở đó đầy dẫy tình dục và tội lỗi. Ai thích hư danh hơn tánh nết, ấy là người hèn…”
Lối văn của Thánh Kinh báo bài nào cũng đại khái như vậy. Cái sở trường ở chỗ dùng lời nói thường mà đạt được ý cao sâu. Câu nào câu nấy rắn rỏi, già giặn, không có cái bịnh quá rườm rà, nhiều lời ít lẽ. Nếu những người thức giả đọc mấy đoạn trên đây mà không đồng ý, không khen như tôi, thì tôi xin chịu là tôi không có mắt, không có óc!
Thánh Kinh báo lại có một cái giá trị đáng quý nữa là viết chữ đúng. Cả 32 trương chữ đặc mà tôi thấy chỉ sai một chữ thôi, là chữ trau mà viết ra trao, ở trương 22, cột 2. Lại còn cách chấm câu cũng thật là hẳn hòi, không chỗ chỉ trích được. Đến cách in cũng đáng phục, đã đẹp lại kỹ, đâu ra đó lắm, không có làm tạp nạp bèm nhèm như lối in của phần nhiều báo chí ta. Tôi tưởng ai hay suy nghĩ một chút, thấy tập báo nầy chắc cũng phải sanh lòng hổ thẹn: sao người ngoại quốc lại biết viết tiếng Việt Nam đúng và có phép tắc hơn người bổn quốc?
Xem tập Thánh Kinh báo nầy lại thấy ra cái Mỹ quốc hóa (Américanisme) nữa. Người Mỹ vẫn là phú hào mà lại có cái tánh cần kiệm, tiếc từng chút vật liệu cũng như tiếc từng chút thì giờ. Tập báo nầy giấy thật tốt, in thật khéo, mà bài nào bài nấy cũng cứ chẵn trương, không hề chừa một chút giấy dư. Cái đặc tánh ấy thiết tưởng ta cũng nên bắt chước. Song le, có người lại nói rằng: Việc gì mà làm như vậy thì được, chớ in sách mà làm như vậy, tất phải đẽo gọt từng bài cho tề chỉnh, e có khi làm kém cái tinh thần mỹ thuật đi và cũng có khi làm mất sự linh hoạt của văn học đi.
Trên đó tôi làm xong phần việc giới thiệu Thánh Kinh báo cho độc giả người Việt Nam; sau đây tôi có một chút ý kiến muốn đem cống hiến cho tòa soạn Thánh Kinh báo.
Trong nước chúng tôi, từ xưa học về đạo lý đều dùng sách bằng chữ Hán cả, bắt đầu từ đây mới có những sách nói về tôn giáo hay triết học bằng quốc ngữ. Sự học trong nước nầy cũng thiếu thốn như mọi đồ mặc thức dùng, chúng tôi bằng lòng nhập cảng hàng ngoại quốc về những món nào mà chúng tôi thiếu. Tuy vậy, chúng tôi chỉ ưa dùng hàng thiệt mà thôi. Nói thế, có ý bóng là khi liệt vị đem Kinh Thánh mà giới thiệu cho chúng tôi, phải nói cho thật đúng với Kinh Thánh, Kinh Thánh nói làm sao thì nói y theo làm vậy, rồi chúng tôi hiểu thế nào tuỳ chúng tôi, chớ người nhập cảng không nên pha trộn một chút gì vào.
Tôi vẫn biết liệt vị biên tập Thánh Kinh báo rất là cẩn thận, chẳng phải cậy ở trí khôn mình mà cậy ở Thánh linh soi dẫn cho. Dầu vậy, cũng còn có chỗ làm cho tôi thấy mà hồ nghi, phải chất vấn mới được.
Trương 27, về mục “Bài học ngày Chúa nhựt” cột 2, có đoạn như vầy:
“Thế gian không phải tự nhiên mà có. Nhưng phải nhờ có một quyền phép lớn lắm mà đã dựng nên trời đất, và quyền phép lớn ấy tức là Đức Chúa Trời”.
Đó, câu cuối cùng đó phải làm cho tôi hồ nghi. Tôi thấy như Kinh Thánh nói quyền phép lớn ấy ra từ Đức Chúa Trời, chớ không phải tức là Đức Chúa Trời.
Nếu nói quyền phép lớn ấy tức là Đức Chúa Trời, thì thành ra Đức Chúa Trời với quyền phép lớn chỉ có một mà thôi. Kinh Thánh có khi nào nói như vậy? Theo Kinh Thánh thì Đức Chúa Trời có hình, cho nên “ngài mới nắn người ta theo như hình của ngài”. Chẳng những vậy thôi, Đức Chúa Trời lại có khi vui, khi buồn, khi nổi ghen, khi phát cơn giận và thạnh nộ nữa; thế mà bảo rằng quyền phép lớn tức là ngài, sao được? Quyền phép dầu lớn cho mấy đi nữa cũng chỉ là một danh từ trừu tượng (un nom abstrait) mà thôi, khi nào có sự vui, buồn, ghen, giận được?
Theo Kinh Thánh thì Đức Chúa Trời vẫn có hình tượng, duy người ta không thấy được, chỉ có người đời xưa như ông Áp-ra-ham, ông Môi-se thì đã thấy được ngài. Nếu ngài chỉ là cái quyền phép lớn, chỉ là một danh từ trừu tượng, thì cũng chẳng qua như cái danh từ đạo hay lý, các ông ấy làm sao thấy được và nhiều khi đã nói chuyện cùng ngài?
Các Tống nho, tức là các nhà triết học Tàu về hồi thế kỷ XII, XIII, nói rằng: “Thiên tức lý dã” hay là nói: “Thiên giả lý nhi dĩ”. Nghĩa là: “Trời tức là lý”; hay là: “Trời, chỉ là lý mà thôi”. Vậy nếu tín đồ đạo Tin Lành mà cũng nói Đức Chúa Trời tức là quyền phép lớn, thì có khác gì ông Trời của Tống nho? Bởi vì quyền phép và lý cũng chỉ là cái danh từ trừu tượng!
Một câu đó – riết lại chỉ hai chữ tức là – tuy không chi mà quan hệ lắm. Thấy câu ấy có thể hồ nghi cả bộ Kinh Thánh, vì gặp những chỗ khác, người ta có thể hỏi rằng: Đức Chúa Trời chỉ là quyền phép, sao lại có hình tượng, có đủ thứ tánh tình như người ta?
Tôi biện bác cái lẽ nầy cũng như trước kia phê bình sách Nho giáo của ông Trần Trọng Kim, mà tôi không chịu cái lẽ vô cực là của Khổng Tử. Tôi nói: nếu từ miệng mình nói ra, muốn nói thế nào thì nói, miễn có lý là được; nhưng khi thuật lời người đời xưa, thì phải nói y theo lời người đời xưa; bằng chẳng vậy, nhiều khi sẽ thành ra mình vu cho người đời xưa. Lời của người thường còn như vậy, huống chi lời Kinh Thánh đã được nhìn là lời của Đức Chúa Trời.
Sau hết, tôi xin có lời cảm ơn ông bà Mục sư Cadman đã gởi tặng tập báo nầy cho tôi. Vì tôi làm chung việc dịch Kinh Thánh với ông trong 5 năm (1920-1925), biết ông là người yêu lẽ thật, nên thấy trái thì nói, tôi chẳng lấy làm ngại chút nào. Trong bài nầy, nếu có chỗ nào bổ ích cho việc biên tập của ông thì có lẽ là một đoạn cuối cùng đó.
PHAN KHÔI
Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.74 (16.10.1930)
Nhà Văn Phan Khôi – Người Tham Gia Dịch Kinh Thánh Ra Việt Ngữ
Nguyễn Đình Bùi Thị – (Thăng Bình, Quảng Nam)
Với chủ đề “Dâng Vinh Quang Cho Chúa”, chương trình sẽ được tổ chức tại Crystal Cathedral vào ngày 2/7/2011. Lễ kỷ niệm kéo dài cả ngày từ 9h sáng đến 10h tối gồm các chương trình thờ phượng, điểm lại lịch sử, giảng luận, ngợi khen – làm chứng… song song đó còn có chương trình dành riêng cho thế hệ thanh niên Việt Nam nói tiếng Mỹ. Dự kiến có khoảng 5000 tín đồ từ khắp nước Mỹ sẽ đến Califorina để tham dự chương trình này.
Mục sư Nguyễn Xuân Đức, đồng trưởng ban tổ chức kêu gọi Mục sư của các hệ phái vượt qua mọi rào cản của những khác biệt, chấp nhận lẫn nhau để nhìn thấy sự trọn vẹn của thân thể Đấng Christ, cùng tham gia vào chương trình trong tinh thần yêu thương, hiệp một để cùng “dâng vinh quang cho Chúa” như chủ đề của chương trình.
Mục sư Hồ Thế Nhân giới thiệu poster quảng bá chính thức của chương trình
Mục sư Nguyễn Ase trình bày về vấn đề tiếp tân-trật tự. Ông cũng kêu gọi các mục sư, con cái Chúa hổ trợ ban tiếp tân-trật tự để mọi người tham dự được đón tiếp một cách chu đáo.
Mục sư Trương Anh Tú kêu gọi tinh thần cầu nguyện tha thiết xin Chúa Thánh Linh thăm viếng trong ngày lễ quan trọng này để không chỉ là một buổi lễ của hình thức tôn giáo mà quan trọng hơn hết là sự phấn hưng trên các con cái Chúa tham gia chương trình.
Các mục sư trao đổi ý kiến đóng góp trong tinh thần xây dựng, hiệp một.
và cùng nhau dốc lòng cầu nguyện cho chương trình.
Tinh thần yêu thương, hiệp một của các tôi tớ Chúa khiến buổi họp bàn công việc và cầu nguyện kết thúc trong sự thỏa lòng. Từ đây cho đến ngày tổ chức chương trình sẽ còn nhiều buổi họp và cầu nguyện tiếp theo.
“Kìa, anh em ăn ở hòa thuận nhau thật tốt đẹp thay! Ấy khác nào dầu quí giá đổ ra trên đầu, chảy xuống râu, tức râu của A-rôn, chảy đến trôn áo người; Lại khác nào sương móc Hẹt-môn sa xuống các núi Si-ôn; Vì tại đó Đức Giê-hô-va đã ban phước, tức là sự sống cho đến đời đời. (Thi Thiên 133)
Kỷ niệm 100 năm Tin Lành đến Việt Nam cũng là lần thứ 2 con cái Chúa tại Việt Nam đón chào một năm hân hỉ. Hy vọng đây sẽ thật sự là một năm đầy tràn sự vui mừng cho dân sự Chúa, năm mà người Việt sẽ nhận lại được sản nghiệp thuộc linh của mình và hết lòng rao truyền sự tự do cho những linh hồn còn bị cột trói bở quyền lực tối tăm như lời Chúa trong Lê-vi-ký 25:10 “Các ngươi phải làm cho năm thứ năm mươi nên thánh, và rao truyền sự tự do cho hết thảy dân trong xứ. Ấy sẽ là năm hân hỉ cho các ngươi; ai nấy đều được nhận lại cơ nghiệp mình.”
Lê Giang
Tin tức, bài vở cộng tác góp ý xin gởi về tintuc@hoithanh.com