Home Tin Lành Bài 2 – Sách Những Người Biết Chúa Giê-Xu

Bài 2 – Sách Những Người Biết Chúa Giê-Xu

by Ban Biên Tập
30 đọc

 

1. Vậy Ngài đến một thành thuộc về xứ Sa-ma-ri, gọi là Si-kha, gần đồng ruộng mà Gia-cốp cho Giô-sép là con mình. Tại đó có cái giếng Gia-cốp. Nhân đi đàng mỏi mệt, Đức Chúa Giê-su ngồi gần bên giếng; bấy giờ độ chừng giờ thứ sáu. (Giăng 4:5-6)

Kinh Thánh chỉ cho thấy:

 Chúa Giê-su là người giàu có và đi du lịch rất sang trọng.

 Chúa Giê-su là người thực thụ, Ngài cũng bị mệt mỏi.

2. Một người đàn bà Sa-ma-ri đến múc nước. Đức Chúa Giê-su phán rằng: Hãy cho ta uống. Vì môn đồ Ngài đã đi ra phố đặng mua đồ ăn. Người đàn bà Sa-ma-ri thưa rằng: Ủa kìa! Ông là người Giu-đa, mà lại xin uống nước cùng tôi, là một người đàn bà Sa-ma-ri sao? (Số là, dân Giu-đa chẳng hề giao thiệp với dân Sa-ma-ri.) (Giăng 4:7-9).

– Thảo luận: Tại sao người đàn bà tỏ thái độ ngạc nhiên khi Chúa hỏi xin bà cho nước?

3. Đức Chúa Giê-su đáp rằng: Ví bằng ngươi biết sự ban cho của Đức Chúa Trời, và biết người nói: “Hãy cho ta uống” là ai, thì chắc ngươi sẽ xin người cho uống, và người sẽ cho ngươi nước sống. (Giăng 4:10)

– Chúa Giê-su nói Ngài có thể ban cho bà điều gì?

4. Người đàn bà thưa: Hỡi Chúa, Chúa không có gì mà múc, và giếng thì sâu, vậy bởi đâu có nước sống ấy? Tổ phụ chúng tôi là Gia-cốp để giếng nầy lại cho chúng tôi, chính người uống giếng nầy, cả đến con cháu cùng các bầy vật người nữa, vậy Chúa há lớn hơn Gia-cốp sao? (Giăng 4:11-12)

– Người đàn bà này nghĩ rằng Chúa Giê-su đang nói đến:

 Nước uống bình thường.

 Sự sống đời đời.

5. Đức Chúa Giê-su đáp rằng: Phàm ai uống nước nầy vẫn còn khát mãi; nhưng uống nước ta sẽ cho, thì chẳng hề khát nữa. Nước ta cho sẽ thành một mạch nước trong người đó, văng ra cho đến sự sống đời đời. (Giăng 4:13-14)

– Điều gì là tốt nhất Chúa Giê-su ban cho chúng ta?

 Những điều thuộc về vật chất.

 Đời sống tâm linh, sự sống đời đời.

6. Người đàn bà thưa: Lạy Chúa, xin cho tôi nước ấy, để cho tôi không khát và không đến đây múc nước nữa. Đức Chúa Giê-su phán rằng: Hãy đi, gọi chồng ngươi, rồi trở lại đây. Người đàn bà thưa rằng: Tôi không có chồng. Đức Chúa Giê-su lại phán: Ngươi nói rằng: Tôi không có chồng, là phải lắm; vì ngươi đã có năm đời chồng, còn người mà ngươi hiện có, chẳng phải là chồng ngươi; điều đó ngươi đã nói thật vậy. Người đàn bà thưa rằng: Lạy Chúa, tôi nhìn thấy Chúa là một đấng tiên tri. (Giăng 4:15-19)

– Tại sao Chúa Giê-su bảo người đàn bà hãy đưa chồng của bà đến?

 Bởi vì Chúa không biết bà có chồng hay không.

 Để bà nhận ra tình cảnh thực sự của mình, bà cần sự cứu rỗi mà Chúa Giê-su là Đấng ban cho như là một tặng phẩm.

7. Tổ phụ chúng tôi đã thờ lạy trên hòn núi nầy; còn dân Giu-đa lại nói rằng nơi đáng thờ lạy là tại thành Giê-ru-sa-lem. Đức Chúa Giê-su phán rằng: Hỡi người đàn bà, hãy tin ta, giờ đến, khi các ngươi thờ lạy Cha, chẳng tại trên hòn núi nầy, cũng chẳng tại thành Giê-ru-sa-lem. Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết, vì sự cứu rỗi bởi người Giu-đa mà đến. Nhưng giờ hầu đến, và đã đến rồi, khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng Cha: Ấy đó là những kẻ thờ phượng mà Cha ưa thích vậy. Đức Chúa Trời là Thần, nên ai thờ lạy Ngài thì phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy. (Giăng 4:20-24)

– Chúa Giê-su dạy sự thờ phượng thật là:

 Thờ phượng trong quyền năng của Thánh Linh.

 Thờ phượng ở những chỗ đặc biệt, như tại đền thờ Giê-ru-sa-lem chẳng hạn.

8. Người đàn bà thưa: Tôi biết rằng Đấng Mê-si-a (nghĩa là Đấng Christ) phải đến; khi Ngài đã đến, sẽ rao truyền mọi việc cho chúng ta. (Giăng 1:25)

– Người đàn bà này mong đợi gì khi Đấng Mê-si-a đến?

9. Đức Chúa Giê-su phán rằng: Ta, người đang nói với ngươi đây, chính là Đấng đó. (Giăng 4:26)

– Chúa Giê-su có xác nhận với bà một cách tỏ tường chính Ngài là Đấng Mê-si-a, là Đấng Cứu Chuộc?

 Có

 Không

 Không biết.

10. Khi đó, môn đồ tới, đều sững sờ về Ngài nói với một người đàn bà; nhưng chẳng ai hỏi rằng: Thầy hỏi người ấy điều chi? Hay là: Sao thầy nói với người? Người đàn bà bèn bỏ cái vò của mình lại và vào thành, nói với người tại đó rằng: Hãy đến xem một người đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm; ấy chẳng phải là Đấng Christ sao? (Giăng 4:27-29)

– Người đàn bà đã làm gì sau khi gặp Chúa?

 Bà nói Chúa Giê-su là tiên tri giả.

 Bà làm chứng rằng Chúa Giê-su là Chúa Cứu Thế.

11. Có nhiều người Sa-ma-ri ở thành đó tin Ngài, vì cớ lời đàn bà đã làm chứng về Ngài mà rằng: Ngài đã bảo tôi mọi điều tôi đã làm. (Giăng 4:39)

– Có bao nhiêu người Sa-ma-ri ở thành đó tin Chúa Giê-su? Tại sao?

12. Vậy, các người Sa-ma-ri đã đến cùng Ngài, xin Ngài vào trọ nơi mình; Ngài bèn ở lại đó hai ngày. Khi đã nghe lời Ngài rồi, người tin Ngài càng đông hơn nữa. (Giăng 4:40-41)

– Cuối cùng có bao nhiêu người tin Chúa Giê-su?

 Có vài người.

 Một số người.

 Càng có nhiều người hơn.

13. Họ nói với người đàn bà rằng: Ấy không còn phải vì điều ngươi đã nói với chúng ta mà chúng ta tin đâu; vì chính chúng ta đã nghe Ngài, và biết rằng chính Ngài thật là Cứu Chúa của thế gian. (Giăng 4:42)

– Dân thành Sa-ma-ri tuyên xưng Chúa Giê-su thật sự là

14. Bạn có ý kiến gì về điều này: Bạn có tin là người đàn bà Sa-ma-ri ăn năn đời sống tội lỗi của bà không? Bạn có tin là bà ấy nhận được sự sống đời đời, tức sự sống tâm linh từ Chúa Cứu Thế Giê-su không? Bạn nghĩ rằng dân thành Sa-ma-ri vui vẻ hơn hay buồn rầu hơn trước đây?

Bình Luận:

You may also like